Nguyễn Linh Vinh Quốc
“Nghề tạc tượng gỗ ăn sâu, thấm vào máu tôi từ lúc nào không thể nhớ. Khi còn bé, tôi hay theo cha và các người già trong làng để xem tạc tượng nhà mồ trong lễ bỏ mả (Pơthi), hay tạo tác hoa văn để trang trí lúc làm nhà rông mới. Lâu dần các dáng cây gỗ, các loại tượng, hoa văn nhìn hoài thành quen mắt. Khi người lớn nghỉ tay tôi xin làm thử. Lúc đầu tay chân lóng ngóng nhưng sau quen tay rìu, tôi cũng làm được. Cha tôi và người già khen là khéo tay, có năng khiếu trời cho.
Từ đó, tôi trở thành thợ tạc tượng chính của làng, tích lũy kinh nghiệm theo từng mùa lễ hội. Hiện nay, tôi được nhà nước trao tặng danh hiệu nghệ nhân ưu tú và luôn sẵn sàng truyền dạy, hướng dẫn cho bất cứ ai muốn học về tạc tượng. Nhưng gỗ rừng ngày một khan hiếm, tượng gỗ dần vắng bóng ở khu nhà mồ, thêm vào đó lớp trẻ không “mặn mà” với tạc tượng nên tượng gỗ ngày càng mai một…” – Nghệ nhân ưu tú Ksor Hnao, làng Plei Kep, thành phố Pleiku (Gia Lai) tâm sự.
Tượng gỗ dân gian có một vị trí đặc biệt trong văn hóa tâm linh của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Tượng gỗ thể hiện khát vọng nhân sinh dung dị, đặc sắc, gắn liền với đời sống, sinh hoạt của người Tây Nguyên bản địa. Mỗi tác phẩm mang mỗi dáng vẻ biểu cảm, sắc thái riêng biệt được các nghệ nhân tạo nên chỉ từ những dụng cụ thô sơ như: rìu, đục, rựa…
Tượng gỗ Tây Nguyên có sự độc đáo rất riêng bởi không hề theo bất cứ khuôn mẫu, tỉ lệ, chuẩn mực nào trong điêu khắc. Nó tùy vào sự tài hoa, khéo léo của đôi tay, óc tưởng tượng phong phú của nghệ nhân. Họ chỉ nhìn ngắm khúc gỗ, cầm cục than vạch vài đường nét theo chiều cong, thẳng của khúc gỗ để định hình dáng của bức tượng. Cùng với sự thăng hoa bay bổng, chỉ sau vài đường rìu, nhát rựa mạnh mẽ, dứt khoát, bức tượng đã dần hiện ra.
Người Tây Nguyên chia tượng gỗ làm hai nhóm chính: tượng nhà mồ và tượng trang trí. Nhóm tượng nhà mồ luôn tuân thủ những quy định khắt khe của làng. Gỗ từ rừng về vào thẳng khu vực nghĩa trang, cấm không được vận chuyển ngang qua làng. Thợ tạc tượng chỉ cầm dụng cụ đến khu nghĩa trang và tạc tại chỗ. Những người thợ tài hoa của làng sẽ giúp gia đình tạc tượng để chuẩn bị cho lễ bỏ mả (Pơ thi). Những khúc gỗ đủ hình dáng qua tay rìu điêu luyện của thợ làng tạc nên những bức tượng mộc mạc như người ngồi bó gối ủ rũ, phụ nữ địu con, người giã gạo, người hút thuốc, thanh niên đánh trống… Tất cả những bức tượng sinh động phản ánh đời sống, sinh hoạt của người dân bản địa. Hơn nữa, nó thể hiện tình cảm luyến lưu và lời tiễn biệt của gia đình dòng họ với người đã khuất. Nhóm tượng gỗ trang trí cũng rất phong phú, khi mô phỏng lại những vật dụng gia đình như bầu nước, nồi đồng hay những vật nuôi là chim công, cú, chó… Mô típ ngọn rau dớn là hoa văn trang trí phổ biến ở nhà rông.
Trao đổi với chúng tôi, nghệ nhân Ahung ở làng Kon kotu huyện Đăk rơva (Kontum) cho hay: “Nay gỗ rừng khan hiếm, các làng cũng bỏ bớt lễ bỏ mả vì tốn kém, ít người tạc tượng nhà mồ rồi. Tôi cũng sợ mai sau con cháu mình không biết tới tượng gỗ dân gian nữa. vì vậy đi rẫy hay ra sông thấy mẩu gỗ lũa nào hay hay thì nhặt về. Nhìn ngắm và rảnh là tôi đẽo mặt nạ tùy theo miếng gỗ. Ban đầu làm chơi thôi, sau này du khách đến thăm làng nhìn thấy thích họ mua về để trang trí, thấy cũng có thu nhập và duy trì được nét truyền thống cha ông nên tôi làm thêm nhiều tượng mặt nạ để bán”.
Chỉ với dụng cụ thô sơ, các nghệ nhân tạc tượng đã thổi hồn vào gỗ tạo thành những tác phẩm đa dạng, đặc sắc phản ánh sinh động các sinh hoạt văn hóa của các tộc người ở Tây Nguyên. Mong sao những kỹ thuật, kỹ năng tạc tượng dân gian này được trao truyền, tiếp nối và trường tồn.