Theo Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam
Họa sĩ vẽ minh họa: Nguyễn Văn Đức
Ngày xưa có một anh học trò hiền lành. Nghe ở tỉnh Đàng ngoài có một ông thầy nổi tiếng tài cao học rộng, anh cố tìm đến tận nơi theo học. Học được ba năm, một hôm anh bỗng nhớ vợ trẻ ở nhà, bèn xin phép thầy trở về thăm quê. Thầy bảo trò ngửa bàn tay xem quẻ, rồi bảo: “Con về lần này lành ít dữ nhiều, không nên con ạ”.
Tuy trò vâng lời, nhưng thấy anh không vui, việc học có phần trễ nải, nên ít lâu sau, thầy đành bảo: “Chí đã quyết thì con cứ về. Con sẽ gặp một số tai nạn, để ta đọc cho nghe mấy câu này, con nhớ kỹ lấy và theo đúng thì mới tránh được:
“Gặp đình chớ tới,
Gặp thơm chớ gội ,
Gặp gà chớ đuổi,
Ba, Bốn, Sáu chớ hỏi” .
Trò nhẩm thuộc lòng và từ giã thầy ra về. Trên đường, một hôm bỗng gặp mưa lớn giữa đồi vắng, trò vội rảo bước tìm chỗ nấp. Vừa hay thấy thấp thoáng có một ngôi đình cổ, trong đó cũng có người đang trú mưa. Trò co cẳng chạy tới, nhưng lúc sắp tới nơi bỗng sực nhớ tới lời dặn đầu tiên của thầy nên anh dừng lại. Những người trú trong đình gọi rối rít: “Anh kia chạy vào mau kẻo ướt!”. Trò đáp “Thầy tôi đã dặn không được trú trong đình, bà con hãy ra đi kẻo nguy”.
Mọi người đều cười khi anh cứ đứng giữa mưa gió mà không chịu vào. Nhưng chỉ một chốc sau đình bỗng dưng đổ xuống rầm một cái, lấp hết cả đám người nấp trong đó. Anh học trò chỉ còn biết khóc thương cho những người xấu số, rồi lại tiếp tục lên đường về nhà.
Lại nói chuyện người vợ của anh, trong lúc chồng đi học vắng thì ở nhà tằng tịu với một gã trai khác. Hai kẻ đó chỉ ước muốn lấy được nhau mới thỏa dạ. Cuối cùng họ tính chỉ có cách khử người chồng đi thì mới có thể ở với nhau lâu dài.
Vợ về nhà cứ y kế nấu nước thơm cho chồng gội đầu. Thị bảo chồng: “Mình yêu quý ơi! Hãy tắm gội thay áo quần đi kẻo bụi bặm. Tôi đã nấu sẵn bồ kết nước thơm cho mình đây!”. Chồng nghe nói đến hai tiếng “nước thơm” thì giật mình, sực nhớ tới lời dặn thứ hai của thầy, bèn chối từ không gội. Vợ cố dỗ dành đôi ba lần không được, đổ đi thì tiếc của. Sẵn đầu tóc bẩn, thị dùng luôn nước ấy gội đầu.
Đêm ấy, khi hai vợ chồng đang ngủ say, thì gã tình nhân lẻn đến, tay cầm một con dao sắc. Tuy đêm tối, hắn vẫn tìm ra cái đầu thơm dễ dàng, và dùng dao cắt cổ mau lẹ. Xong xuôi, hắn toan gọi tình nhân dậy để cùng mình khiêng xác vứt xuống sông, nhưng bỗng hắn nhận ra là mình đã giết nhầm người yêu. Sợ quá, hắn bèn nhanh chân thoát ra khỏi nhà, may làm sao không một ai biết cả.
Sau những ngày tra khảo, anh học trò vẫn một mực khai rằng mình không can cớ gì làm hại vợ cả. Vả chăng, nếu đã định tâm giết vợ thì trốn đi, dại gì mà kêu làng tới. Nhưng anh cũng không có cách gì để chỉ ra thủ phạm, vì thế vẫn cứ bị giam trong ngục. Một hôm ở nhà giam người ta phơi thóc để bắt tù phạm xay giã. Anh học trò được cắt cho công việc canh gà. Bầy gà thấy thóc thì rủ nhau tới ăn. Anh học trò bỗng nhớ tới lời dặn thứ ba của thầy, nên cứ để cho gà ăn mà không xua đuổi. Lính gác thấy vậy mắng: “Sao bảo canh gà mà cứ ngồi trơ ra như phỗng thế?”. Trò chỉ cười khì không đáp. Thấy anh vẫn ngồi nhìn gà ăn thóc mà không nhúc nhích, bọn lính cho anh là một tên bướng bỉnh, sẵn roi quất cho một trận. Người trò kêu khóc rầm lên. Bấy giờ quan đang ngồi ở công đường, nghe ồn ào vội sai người đến xem chuyện gì. Khi biết đầu đuôi, quan bèn cho vời anh tới: “Anh là học trò mà lại đang mang tội, sao lại bướng thế? Người ta thương hại chỉ bắt xua gà là công việc nhẹ, sao anh nhất định không chịu làm?”. Người học trò đáp: “Bẩm quan, trước khi về thăm nhà thầy dạy tôi có cho tôi bốn câu thơ để phòng thân. Tôi đã theo hai câu đầu, nhờ đó tránh được tai nạn, nên câu thứ ba không thể không theo”. “Thơ như thế nào?” – Quan hỏi. “Câu thứ nhất là “Gặp đình chớ tới”. Suýt nữa tôi đã chết thê thảm trong một ngôi đình sắp đổ. Câu thứ hai là: “Gặp thơm chớ gội”. Chính vợ tôi đã gội nước thơm thay tôi nên bị một kẻ lạ mặt cắt cổ. Còn câu thứ ba thầy tôi dặn là “Gặp gà chớ đuổi.” Vì vậy tôi không dám đuổi gà, chứ không phải bướng đâu”.
Quan vội hỏi tiếp: “Vậy còn câu thơ thứ tư là gì?”. “Bẩm, câu thứ tư là: “Ba, Bốn, Sáu chớ hỏi”.
Đêm đó quan nghĩ mãi về câu thơ thứ tư. “Ba, Bốn, Sáu chớ hỏi, vậy thì chỉ có thể là Năm. Phải chăng có một người tên là Năm đã hạ sát người đàn bà”. Nghĩ vậy, sáng dậy, quan lập tức thảo trát đòi lý hương nơi xảy ra án mạng phải tìm trong xã có ai tên là Năm không. Nếu có thì phải giải lên quan ngay.
Trong vùng ấy quả có một người tên là Năm. Và chính hắn là tình nhân của người đàn bà. Khi thấy bỗng nhiên có nha lại về bắt, hắn nghĩ rằng nếu không phải oan hồn của nhân ngãi bị mình giết nhầm hiển hiện, thì làm sao quan lại bắt được đích danh như thế. Nghĩ vậy, hắn không đợi tra tấn, giơ đầu tự thú.