Theo Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam
Họa sĩ vẽ minh họa: Cẩm Anh Ng
Ngày xưa, ở vùng sông Tranh thuộc tỉnh Đông có hai vợ chồng nhà nọ, gia tư cũng vào hạng khá, nhưng tuổi già mà chưa có con. Một hôm, trong khi ra đồng phát ruộng, người chồng nhặt được hai quả trứng to bằng nắm tay. Tò mò, hai vợ chồng đem về nhà nuôi, chỉ trong mấy ngày, hai quả trứng đã nở thành một cặp rắn nhỏ quấn quýt đôi vợ chồng. Một hôm người chồng cuốc vườn, cặp rắn bò theo sát nút để kiếm cái ăn trong đất mới lật. Vô tình một nhát cuốc bổ xuống làm đứt đuôi một con. Từ đó con rắn bị đứt đuôi ngày một trở nên hung dữ. Càng lớn, chúng càng ăn khỏe và thường bò vào chuồng gà các nhà lân cận tìm bắt gà con. Bị xóm giềng chửi bới luôn canh, hai vợ chồng đành mang cặp rắn đến bờ sông thả xuống.
Cặp rắn vừa thả xuống nước đã được vua Thủy cho cai quản khu vực sông Tranh. Từ đó hai con rắn làm oai làm phúc suốt cả một khúc sông rộng. Người ta lập đền thờ chúng bên sông, gọi chúng là Đức ông tuần Tranh, cũng gọi là ông Dài, ông Cộc. Thỉnh thoảng chúng vẫn bắt người và súc vật qua lại trên sông.
Một hôm có hai vợ chồng người họ Trịnh có việc đi thuyền qua đấy đỗ lại. Người vợ là Dương thị vốn người xinh đẹp làm cho ông Cộc mê mẩn. Ông Cộc sai hai người con gái đội mâm lễ vật đến anh học trò đề nghị nhường người vợ nhưng bị từ chối. Tuy vậy nhưng người học trò cũng có ý sợ bèn cùng vợ lên bờ, đi được một đoạn thì ông Cộc đuổi theo, hóa làm một trận mưa bão kinh hoàng làm cho họ không thể tiếp tục đi được. Chồng đành đưa vợ vào trú ở một ngôi đền gần đó tránh bão. Sáng dậy, bão tan, người học trò tỉnh dậy đã thấy vợ mình biến đâu mất. Anh theo dấu đến bờ sông chỉ còn thấy quần áo của vợ trút bỏ lại đó.
Đau xót vì mất người vợ yêu, anh chàng họ Trịnh bèn đi lang thang khắp nơi tìm vợ. Trải qua bao nhiêu ngày tháng, một hôm anh tình cờ gặp được Bạch Long hầu, vị thần vốn có phận sự làm mưa ở vùng này. Thấy việc tác quái, Bạch Long hầu ngỏ ý giúp chàng học trò tìm lại người vợ bằng cách đăng đơn kiện ông Cộc trước tòa án vua Thủy. Vua Thủy khi thấy chứng cớ sờ sờ về hành động gian ác của bộ hạ mình thì đùng đùng nổi giận và bắt đày ông Cộc đi thật xa cho đến cùng trời cuối đất.
Ngày ông Cộc đi đày, tôm cá rắn rết náo động cả một khúc sông Tranh. Quân lính áp giải ông Cộc ra biển rồi đi ngược lên phía Bắc. Trải qua nhiều ngày, một hôm họ đến một vùng nhìn vào thấy rừng cây mịt mù, không hề có khói lửa. Ông Cộc hỏi một số người địa phương: “Đây là đâu?”. Họ đáp: “Nơi đây đã sắp hết địa phận nước Việt rồi. Đi quá nữa là sang nước khác”. Ông Cộc bảo quân lính áp giải: “Vậy là đến chốn kỳ cùng rồi đó. Theo lệnh nhà vua, ta sẽ ở lại nơi đây”.
Cả đoàn bấy giờ rẽ sóng kéo vào cửa sông. Nhưng ở khúc sông này từ lâu có một con thuồng luồng trấn trị, không muốn chia sẻ quyền hành với ông Cộc. Cho nên khi thấy ông Cộc tới, lập tức một cuộc giao phong diễn ra dữ dội từ cửa sông cho đến tận thượng nguồn. Vua Thủy biết chuyện liền chia đôi khu vực, định lại ranh giới rõ ràng giữa ông Cộc và thuồng luồng. Ông Cộc bèn cho đưa một tảng đá lớn như hình một cái đầu đặt ở ven sông. Bến phía thuồng luồng cũng làm phép hiện ra một cái chuông úp ở bờ bên này làm giới hạn.
Nhưng thuồng luồng thỉnh thoảng lại gây sự đánh nhau với ông Cộc, nên bị vua Thủy giao cho thần Núi địa phương canh giữ, còn ông Cộc từ đấy được cai quản cả hai khu vực. Ngày nay, bên bờ Nam sông Kỳ Cùng, chỗ chân cầu tỉnh lỵ Lạng Sơn còn có một hòn đá lớn như hình cái đầu. Còn bờ bên kia, trong một ngôi chùa cổ còn có cái chuông bị xích. Người ta nói cái đầu bằng đá là do ông Cộc đặt làm mốc, còn cái chuông là hiện thân của thuồng luồng bị thần Núi xích tại đây. Cái tên sông Kỳ Cùng cũng xuất phát từ cuộc đày ải ông Cộc mà có.
Xem thêm: