Bài: Dung Lê
Trên bản đồ nước chấm thế giới, nếu Trung Quốc đặc trưng bởi xì dầu, Hàn Quốc nổi tiếng với Ssamjang (hỗn hợp tương đậu nành lên men, tương ớt, tỏi, hành tây, dầu mè), thì người Việt bao đời nay vẫn sắt son với mắm.
Hiếm có loại gia vị nào đa năng và quan trọng hơn mắm. Khi nêm nếm món chính của bữa ăn hàng ngày hay mâm cỗ, mắm giúp tăng thêm tầng hương vị nồng nàn, tạo điểm nhấn cuốn hút cho thực phẩm.
Khi được pha thành nước chấm đặt giữa bàn ăn, bát nước sóng sánh màu vàng cam rực rỡ như nhụy hoa lấp lánh tỏa hương, kết nối chủ nhà và khách chẳng phân sang hèn, cấp bậc, thể hiện rõ cái ý tứ, lễ nghĩa, mực thước và giá trị cộng đồng.
Sự sáng tạo trong cách bảo quản các sản vật biển
Việt Nam sở hữu 3.260 km đường bờ biển và khoảng 2.360 con sông dài trên 10 km (chưa tính các suối, hồ nhỏ). Con số này không chỉ là một ước lượng địa lý, mà hơn hết phô bày món quà quý giá do thiên nhiên ban tặng.
Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn nguyên liệu cá, hải sản cực kỳ dồi dào. Người Việt từ lâu đã phát triển nghề ra khơi đánh bắt.
Tuy nhiên, thuở xa xưa, khi phát minh tủ lạnh chưa ra đời và du nhập đến Việt Nam, việc bảo quản các loại hải sản trở thành thách thức lớn. Khí hậu quanh năm nóng ẩm của nước ta thúc đẩy rất nhanh quá trình phân hủy tôm, cá.
Trong bối cảnh đó, mắm – công thức bảo quản dân gian ủ muối và cá ra đời, hội tụ từ kinh nghiệm sống gắn liền với con nước, như một lẽ tự nhiên, tương tự cách ông bà ta vẫn biết phối trộn những nguyên liệu mang tính hàn với tính nhiệt nhằm cân bằng âm dương trong nấu ăn từ bao đời nay.
Bức tranh mắm muôn miền
Nói đến mắm Việt Nam, đa số bạn bè quốc tế chỉ biết đến loại nước mắm cá cơm truyền thống, xuất xứ từ vùng Phú Quốc, Phan Thiết, Cà Ná, Nha Trang. Một loại nước loãng màu vàng cánh gián óng ánh thu được sau khoảng thời gian dài ủ chượp cá và muối cho chín đều, theo công thức đạt chuẩn quốc tế.
Nhưng càng đi sâu vào đặc trưng văn hóa vùng miền, càng thấy mắm Việt Nam phong phú. Gian bếp vùng nào cũng thế, mắm luôn đóng vai trò “giữ lửa”, thổi hồn cho hương vị ký ức, khiến ai đi xa lại nhớ cồn cào.
Ví như bát bún riêu thanh ngọt tự nhiên từ cua đồng, mà nồng nàn thơm mùi mắm tôm luôn nằm trong ký ức của những người con sinh ra và lớn lên nơi đất Hà Thành. Rồi cả bát canh mồng tơi, rau đay mắm cáy đã trở thành thứ đặc sản trong những ngày hè oi nồng.
Xuôi về đất miền Trung nắng gió, món ăn chưa bày lên mâm đã sực nức mùi mắm ruốc, mắm nêm, mắm mực, mắm tôm chua. Người Huế ưa mắm ruốc nhất. Các bà, các mẹ thường ấn định món chính cho bữa cơm hàng ngày là cá, thịt kho cùng mắm ruốc. Bún bò Huế, bữa sáng đặc trưng hay trải nghiệm du lịch ẩm thực quốc hồn quốc tuý của xứ “sông Hương núi Ngự” cũng giữ trọn bí quyết ở mắm ruốc.
Người xứ Quảng thì khác. Vốn dư dả mực thu từ những chuyến thuyền đi biển, họ chế biến ra món mắm mực, ăn với cơm nóng hổi, hay xúc bánh tráng trong bữa phụ. Nhưng phổ biến nhất tại vùng đất Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi vẫn phải kể đến mắm nêm, làm từ cá cơm nguyên con hoặc xay nhuyễn, là món ăn kèm không thể thiếu của các món bún mắm, bánh đập, và các món luộc cuốn nói chung.
Nếu người Bắc ưa thích sự thanh thuần, tinh tế, người Trung hảo cái đậm đà “ăn mặn chắc dạ”, thì hiếm có người miệt nào thiên ngọt hơn những người gắn mình với sông nước miền Nam. Thế nhưng, cái ngọt này chẳng phải ngọt gắt hay ngọt như đường. Đặc biệt, trong lẩu mắm, bún mắm, người dân thường dùng mắm cá linh với vị mặn, béo đặc trưng do quá trình lên men để cân bằng hài hòa, khiến món lẩu, bún mắm mang phong vị riêng, khác biệt hẳn với xứ khác.
Giá trị văn hóa của mắm Việt Nam
Mâm cơm Việt đúng nghĩa, dù bày trên chiếc bàn tròn, chõng tre hay dưới nền đất, đều không bao giờ thiếu bát nước mắm tỏi ớt. Các món chính như món xào, món canh có thể thiếu do nhiều người đi làm về muộn, bận rộn không kịp nấu. Nhưng mắm thì tiện lợi, rẻ tiền, nhiều chất dinh dưỡng, đặc biệt là nguồn đạm dồi dào trong cá, giúp bữa ăn có thiếu này thiếu kia vẫn chắc bụng và đảm bảo sức khỏe.
Trên bàn ăn, bát nước mắm bao giờ cũng nằm ở giữa, ngay vị trí đắc địa để ai ai, từ bậc trưởng bối đến lớp trẻ, từ chủ đến khách, từ người quý phái đến người lao động, đều dễ dàng sẻ chia với nhau. Các món quý hiếm, càng thu hút như thịt, cá thì lại được sắp gần bậc cao niên, trưởng lão trong nhà, chứ không bao giờ nằm ở trung tâm.
Đặc trưng ăn uống này thể hiện tính cộng đồng, kính trên nhường dưới rất cao của người Việt, khác hẳn với người Tây hay thậm chí, người Nhật – các quốc gia tôn thờ chủ nghĩa cá nhân, nơi văn hóa chia sẻ, chung đụng nồi, chén vốn không tồn tại trong nề nếp ăn uống hàng ngày.
Mắm không đơn thuần là một loại gia vị, thực phẩm. Mắm gìn giữ hồn quê, nếp nhà. Mắm len lỏi vào nếp sống người Việt quá đỗi tự nhiên, đến mức đôi khi ta chẳng buồn thắc mắc cái xuất xứ của nó.
Thế nhưng, thật khó tưởng tượng nếu thiếu loại gia vị trên, các món ăn Việt nổi tiếng sẽ “thay da đổi thịt” đến mức nào, và hẳn nhiều người sẽ khó dung nạp sự phá cách của một mâm cao lương mỹ vị, nào thịt gà, thịt heo, món xào, món canh, mà lại thiếu một bát nước chấm, như cái phong tục, nề nếp khó đổi dời, nay chẳng còn chễm chệ giữa mâm.
Vậy mới thấy cái mức độ quan trọng của mắm Việt Nam khó mà nói hết.
Xem thêm bài viết liên quan:


