Bài: Tấn Vịnh
Ảnh: Tấn Vịnh, Thanh Hà
Then là một hoạt động văn hóa dân gian nổi bật, tiêu biểu của dân tộc Thái trắng vùng Tây Bắc. Hình thức diễn xướng của loại hình nghệ thuật dân gian này hấp dẫn người xem bằng sự kết hợp giữa múa then, hát Then và không thể thiếu trang phục độc đáo, sặc sỡ của tộc người.
Hát Then phổ biến ở các cộng đồng dân tộc Thái Trắng vùng Tây Bắc, chủ yếu là tỉnh Lai Châu, Điện Biên và vùng Then nổi tiếng của dân tộc Tày – Nùng ở Đông Bắc, gồm các tỉnh như: Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Hà Giang…Theo số liệu thống kê của Cục Di sản, hiện có 817 thầy Then (213 nam, 604 nữ), trong đó có 439 người Tày, 328 người Nùng, 23 người Thái và 27 người ở các dân tộc khác như: Hoa, Cao Lan, Dao…Nhạc cụ cho những buổi hát Then là cây đàn tính -đây là cây đàn thiêng – gắn với sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng. Thầy Then mặc lễ phục, vừa hát vừa gảy đàn tính, xóc nhạc lấy nhịp trên đầu ngón tay trái và phất chiếc quạt giấy để bắt đầu buổi lễ.
Trong tâm thức dân gian, người Thái và người Tày quan niệm có trời, đất. Ông Then ở “trên trời/mườngtrời” đã sinh ra con người và thả họ xuống “quả đất/mường đất”. Con người sinh sống ở Mường Đất có sự phù hộ, chở che của Ông Then. Khi mất, thân xác con người ở lại Mường Đất, linh hồn về với đất tổ Mường Trời và tiếp tục hưởng cuộc sống an lạc kiếp sau. Lễ Then diễn tả hành trình thầy Then điều khiển âm binh đi từ Mường Đất lên Mường Trời để dâng lễ vật và thỉnh cầu đến thần linh. Đồng bào quan niệm Then là “thiên”, là khúc hát thần tiên, những thầy Then chính là sứ giả của thần thánh, là người giúp họ gửi vía cầu thần, chuyển tải tâm tư, nguyện vọng của con người, gia chủ tới thần linh. Do đó, Then được duy trì, thực hành chủ yếu trong các nghi lễ vòng đời người mang yếu tố tâm linh như lễ giải hạn, lễ nối khố, lễ cấp sắc, lễ cúng tổ tiên, cầu sức khỏe, mừng nhà mới, mừng thọ ông bà, cha mẹ…
Một nét độc đáo khác của lễ Then chính là sắc màu trang phục của thầy Then và những người tham gia thực hành nghi lễ, diễn xướng, múa hát. Khi hát Then, đồng bào mặc những loại trang phục truyền thống đặc trưng của dân tộc. Thầy Then đội chiếc mũ có nhiều tua màu sặc sỡ và nổi bật bởi nét trang nghiêm, huyền bí. Phụ nữ với chiếc áo dài, váy, khăn, thắt lưng đều đồng màu xanh chàm hay tím hồng, ít trang trí, thêu thùa, đeo vòng cổ, vòng tay, xà tích trên nền vải chàm. Nhóm nữ tham gia múa hát phụ họa với hai chiếc quạt giấy màu hồng trên đôi tay trông rất duyên dáng. Đàn ông giản dị trong bộ quần dài, áo cánh ngắn vải bông nhuộm chàm.
Hát Then cũng gắn bó chặt chẽ với đời thực, dùng để chúc phúc, cầu được mùa, trao đổi tâm tình lứa đôi, bày tỏ tình yêu quê hương, bản làng, đất nước. Lời hát Then cầu mong điều tốt đẹp đến với dân bản: “Đầu tay cầm chắc tiền tài/Cuối tay cầm chặt tiền vốn/Làm gìcũng được/Muốn gì cũng thành/Cơm gạo đủ đầy/Phú quý chứa chan/Về trần thế được an/Về dương gian được mạnh”. Tiếng hát, tiếng đàn mang hồn cốt dân tộc,khi cất lên thì “hoa thêm sắc, cỏ cây xanh tươi, gió bay nhẹ lướt, mây lượn theo gió, suối reo thì thầm, lúa vàng đâm bông, ngô vui bắp lớn” (Dân ca Tày – Nùng). Vì nét đẹp đầy tính nhân văn đó, hát Then, đàn tính đã ăn sâu trong huyết quản người Tày, Nùng, Thái. Lời Then đi theo suốt cuộc đời mỗi người từ khi còn là bào thai đến từ giã cõi đời.
Then là nghi lễ thiêng liêng của con người gửi đến Mường Trời (thần tiên, đấng siêu nhiên) nhưng nở hoa Mường Đất bởi những giá trị nhân văn cao đẹp. Nó có sức sống trường tồn và đang tiếp tục phát triển, trở thành nếp nghĩ, sức sáng tạo văn hóa, nghệ thuật của dân tộc vùng Đông Bắc và Tây Bắc.