Theo Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam
Họa sĩ vẽ minh họa: Phạm Hoàng Văn

Trong khu rừng sâu kia có một giếng nước trong mát không bao giờ cạn, gọi là Giếng Tiên. Vì người trần không mấy ai qua lại, nên các nàng tiên trên trời thường dùng chỗ ấy làm nơi hội tụ. Ở đấy họ thỉnh thoảng đến lấy nước, hoặc có khi trút bộ cánh trên bờ, xuống bơi lội đùa giỡn cho thỏa thích.

Cũng ngày ấy, ở cõi trần có một chàng trai làm ăn chăm chỉ nhưng sống một thân một mình. Một hôm anh lên rừng đốn củi không ngờ quá chân lạc bước đi mãi vào khu rừng sâu. Trong khi tìm lối ra, anh bỗng đi qua cái Giếng Tiên lúc ấy có ba nàng tiên đang bơi lội cười đùa trong làn nước. Thy có ba b cánh trng toát đ li trên b c xanh, anh tính chuyn rình bt mt cô theo mình. Nghĩ vy anh rón rén bò li ly trm mt b, ri np vào mt gc cây.

Sau khi tắm xong, ba nàng tiên thong thả lội lên bờ. Hai nàng có cánh của mình bay vụt lên trời, còn một nàng mất cánh ngơ ngách tìm tòi khắp nơi. Thấy vậy, anh chàng từ chỗ nấp bước ra, và bảo: “Nàng hãy theo ta về nhà làm vợ. Ta sẽ làm cho nàng sung sướng”.

Mặc dầu nàng tiên van khóc hết lời, chàng trai nhất định không chịu trả đôi cánh. Túng thế nàng tiên đành phải theo chàng. Về tới nhà, trước tiên anh bí mật giấu kỹ bộ cánh rồi ra soạn sửa cơm nước, áo quần, chăn chiếu cho nàng tiên dùng. Từ đó nàng tiên trở thành vợ anh.

Chẳng bao lâu, vợ chàng sinh một đứa con trai. Thấm thoắt đứa con đã lên ba tuổi. Chồng sung sướng nhìn con bập bẹ tập nói, còn vợ thì đã thưa nhắc đến chuyện đòi lại bộ cánh để trở về trời. Một hôm, anh chàng có việc phải xa nhà lâu ngày. Trước khi lên đường, anh dặn vợ: “Mẹ con ở nhà, có ăn thì ăn đụn lúa vang, rồi sang đụn lúa ré, chớ ăn đụn lúa rẹ, có tổ ong vò vẽ, đốt cả mẹ liền con”.

Nhưng vợ ở nhà không làm theo đúng lời dặn của chồng. Sau khi ăn hết đụn lúa vang, nàng liền chuyển sang ăn đụn lúa rẹ. Không thy có t ong vò v nào đt c, nàng tiên bèn sinh mi ng vc. Li dn ca chng đã tr thành mt câu mách ngm. Qu nhiên, sau mt hi tìm tòi, nàng tiên đã tìm thy b cánh cũ ca mình giu kín dưi cót thóc mà chng dn không đưc đng đến.

Đưc cánh, nàng tiên nóng lòng v thăm b m, ch em. Nhưng khi lp cánh vào thì thy ngưng ngưng. Đã lâu lm không bay, nàng cm thy nng n khi ct cánh. T đó, hàng ngày nàng phi gi cánh ra tp luyn.

Chẳng bao lâu thói quen đã trở lại. Nhưng vì thương con, nàng tiên vẫn nấn ná chưa chịu về trời. Đã sắp đến ngày về của chồng. Nàng quyết định phải ra đi. Một buổi chiều, nàng tiên làm một mẻ rất nhiều bánh. Sáng hôm sau, mẹ đưa con vào buồng, dặn: “Con ở nhà hễ khi nào đói thì vào buồng lấy bánh mà ăn đừng có đòi mẹ nhé!”. Rồi mẹ gài lên áo con một chiếc lược và dặn: “Con nhớ giữ lấy lược cho cha nghe”. Dặn đoạn, nàng tiên vỗ cánh bay bổng lên không trung

Người chồng trở về thấy mất vợ, lại thấy lược vợ cài vào áo con thì đoán ra nông nỗi. Từ đấy cha con cui cút, lòng anh buồn rười rượi, thằng bé vắng mẹ kêu khóc đêm ngày. Một hôm, chàng lại bế con tìm lên Giếng Tiên. Li cũ gi đây cây c rm rì che kín. Chàng tìm mãi, cui cùng cũng ln tìm ra đưng. Lập tức chàng đưa con đến nấp bên bờ giếng tiên, hy vọng sẽ được gặp lại vợ ở đây. Chờ mãi đến trưa hôm sau, cha con mới thấy một bà già từ trên trời xách thùng xuống múc nước. Chàng trai cầu khẩn bà tiên: “Tôi là chng nàng tiên ba năm trưc đây xung tm chn này. Nàng đã là v tôi và là m ca thng bé này. Thế mà nàng đt ngt b v tri không mt li đ li. Vậy bà làm ơn giúp cha con chúng tôi, nhắn tin cho vợ tôi xuống đây gặp chồng gặp con một tý. Đây là chiếc lược của vợ tôi để lại làm dấu tích, bà cứ cầm về, vợ tôi khắc biết ngay”.

Bà tiên bảo: “Ta biết rồi. Nàng tiên đó là ả Chức, hàng ngày dệt vải nhưng vẫn nhớ chồng nhớ con. Được, ta hứa sẽ đưa giúp”.

Hai cha con lại chờ cho đến tận chiều hôm sau mới thấy có hai người từ trên trời xuống. Họ đem theo mọi thứ dây túi để đưa cha con lên trời. Họ dặn cha con phải nhắm mắt và phải giữ hết sức im lặng. Vào khoảng canh khuya, hai cha con đã bước vào cõi trời. Vợ chồng, mẹ con gặp nhau mừng mừng tủi tủi.

Nhưng chỉ được hai ngày sau, hai cha con lại phải rời “thượng giới”. Lệnh cấm của Ngọc Hoàng rất nghiêm. Bất cứ người trần nào dám cư trú ở cõi trời đều bị coi như kẻ địch. Người nào chứa chấp cũng bị tội nặng. Ả Chức tuy thương chồng con vô hạn, nhưng không thể xuống sống ở cõi trần. Đành phải chia tay.

Ngày hôm đó, vợ gạt nước mắt trao cho hai cha con một cái trống, một mo cơm, và dặn: “Hễ chân chạm đất thì cứ đánh ba tiếng trống để trên này biết mà cắt dây”.

Hai cha con xuống được nửa đường thì trời đã trưa. Thấy thằng bé khóc đói, anh chàng bèn dừng lại giở mo cơm đặt lên mặt trống cho con ăn. Thằng bé bốc cơm ăn làm vương vãi trên mặt trống. Một đàn quạ thấy vậy bèn sà xuống mổ lấy mổ để. Ở trên kia, ả Chức nghe có tiếng trống tưởng là cha con đã xuống đến đất, bèn cứ việc cắt dây. Dây đứt, cha con rơi xuống biển cả. Thấy việc không ngờ lại xảy ra như thế, đàn quạ biết là lỗi tự mình, bèn bay lên trời kêu váng cả lên. Thế là việc phạm lệnh cấm của nhà ả Chức lọt đến tai Ngọc Hoàng.

Sau khi biết rõ tình cnh ca h, Ngc Hoàng ly làm thương hi, bèn h lnh cho cha con lên tri, giao cho chàng công vic chăn trâu. Sau này người ta gọi anh là chàng Ngưu, hay chàng Ngâu. Hàng ngày chàng Ngưu thả trâu của nhà trời ăn cỏ nhưng chỉ được phép thả trâu và cư trú bên kia bờ sông Ngân. Bên này bờ, ả Chức vẫn ngày ngày dệt vải. Mỗi năm Ngọc Hoàng chỉ cho hai vợ chồng gặp nhau một lần vào ngày mùng Bảy tháng Bảy. Đàn quạ có lỗi thì ngày hôm ấy phải đội đá bắc cầu cho hai vợ chồng qua lại.

Từ đấy, cứ đến ngày mùng Bảy tháng Bảy, trời thường rỉ rả mưa phùn, người ta gọi là mưa Ngâu, cho rằng đó là những giọt nước mắt của vợ chồng được gặp gỡ trong một ngày, rồi lại ly biệt cho đến năm sau. Giống quạ cho đến nay thường bị sói đầu, người ta cho là vì phải làm phận sự đội đá bắc cầu nên mới thế.