Bài: Trần Hậu Yên Thế
Ảnh: Bá Ngọc

Trong số các đền miếu ở Việt Nam, đền vua Đinh, vua Lê (Hoa Lư, Ninh Bình) là hai ngôi đền có số lượng mảng chạm Rồng – Tiên đặc sắc bậc nhất. Đồ án tiên nữ cưỡi rồng trên các mảng chạm trang trí kiến trúc xuất hiện ở đền vua Lê nhiều hơn đền vua Đinh. Có thể sau lần trùng tu lớn vào thời Nguyễn, đã có nhiều mảng chạm Rồng Tiên thời Lê Trung Hưng ở đền vua Đinh bị loại bỏ, chỉ còn sót lại một mảng chạm ở nghi môn nội.

Những mảng chạm khắc thể hiện sự sáng tạo bay bổng với hình tượng rồng, tiên

Hình tượng Tiên nữ ở đền vua Đinh, vua Lê tương đồng về tạo hình với hình tượng này ở nhiều ngôi đình Bắc Bộ, như đình Liên Hiệp (Hà Nội), đình Diềm (Bắc Ninh), đình Lỗ Hạnh (Bắc Giang)…

Đồ án Rồng Tiên hoan ca xuất hiện khá nhiều trong chạm khắc dân gian thế kỷ 16 – 17. Tuy vậy, cho đến nay, giới khảo cổ học vẫn chưa tìm được một đồ án Rồng Tiên nào ở Hoàng thành Thăng Long, hay ở Lam Kinh. Bàn thêm từ góc độ Chính sử, sự vắng bóng truyền thuyết sinh thành dân tộc trong Đại Việt sử lượcCáo Bình Ngô cũng là một dữ liệu cần lưu ý. Về niên đại cuốn Đại Việt sử lược (cuốn lịch sử Việt Nam bằng chữ Hán), phần lớn các học giả đều nhất trí cho rằng nó được viết vào thời Trần, thậm chí có thể còn sớm hơn, thời Lý. Trong cuốn sử này không nhắc đến Lạc Long Quân và Âu Cơ. Ngay ở thời đầu Lê Sơ, Nguyễn Trãi trong Cáo Bình Ngô cũng không nhắc đến truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Phải khá lâu sau đó, tới cuốn Dư địa chí, chúng ta mới thấy Kinh Dương Vương được nhắc tới.

Tiên nữ mang hình ảnh đặc trưng là đôi cánh mọc ra từ hai cánh tay, thân người thanh thoát, trang trí diễm lệ. Hình ảnh lãng mạn bay bổng ấy khiến người xem liên tưởng tới những vũ điệu trong trò múa Tiên của rối nước. Bên cạnh những hình ảnh mang màu sắc cung đình, cũng có nhiều bức chạm, trên đó cô tiên cũng không khác các thôn nữ là bao. Đó là những nàng tiên mang yếm thắm, đầu trần chân đất, tay múa, miệng hát, hồn hậu và gần gũi. Những hình ảnh này gợi nhớ đến giai thoại thân mẫu đức vua Lê Hoàn mơ thấy mình cưỡi rồng lên trời ôm được vầng thái dương mang về, rồi tự nhiên có thai. Huyền thoại dân gian ngấm vào tâm hồn của những người nghệ nhân, để họ trong lúc hứng khởi, bất chợt sáng tạo nên những hình ảnh bay bổng diệu kỳ.

Hình tượng tiên nữ và rồng trên mảng chạm khắc gỗ ở đền vua Lê

Đồ án Rồng Tiên hoan ca xuất hiện khá nhiều trong chạm khắc dân gian thế kỷ 16 – 17. Tuy vậy, cho đến nay, giới khảo cổ học vẫn chưa tìm được một đồ án Rồng Tiên nào ở Hoàng thành Thăng Long, hay ở Lam Kinh. Bàn thêm từ góc độ Chính sử, sự vắng bóng truyền thuyết sinh thành dân tộc trong Đại Việt sử lượcCáo Bình Ngô cũng là một dữ liệu cần lưu ý. Về niên đại cuốn Đại Việt sử lược (cuốn lịch sử Việt Nam bằng chữ Hán), phần lớn các học giả đều nhất trí cho rằng nó được viết vào thời Trần, thậm chí có thể còn sớm hơn, thời Lý. Trong cuốn sử này không nhắc đến Lạc Long Quân và Âu Cơ. Ngay ở thời đầu Lê Sơ, Nguyễn Trãi trong Cáo Bình Ngô cũng không nhắc đến truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Phải khá lâu sau đó, tới cuốn Dư địa chí, chúng ta mới thấy Kinh Dương Vương được nhắc tới.

Bức chạm tiên nữ sơn son thếp vàng

Cũng giống như Nguyễn Trãi, trong các trước tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm, cho đến Phạm Đình Hổ sau này cũng không nhắc đến Âu Cơ. Nói như vậy, chúng tôi không hoài nghi sự tồn tại của truyền thuyết Rồng Tiên trong dân gian, cũng không cho rằng các bậc tài trí đó không hay biết gì đến truyền thuyết này. Nhưng chắc chắn, cho đến tận thời Nguyễn sau này, có một bộ phận nhà Nho không quan tâm tới truyền thuyết hình thành dân tộc của Trần Thế Pháp trong Lĩnh Nam Chích Quái (tập hợp truyện cổ tích và dân gian Việt Nam được biên soạn thời nhà Trần). Ngay như cuốn sách Việt điện u linh ghi lại những câu chuyện các thần linh trên đất Đại Việt xưa cũng không có truyện Lạc Long Quân- Âu Cơ. Cho dù tới thời Nguyễn, cuộc hôn phối giữa Rồng và Tiên bị đưa ra khỏi chính sử, nhưng vẫn có rất nhiều bậc trí giả vẫn ghi tâm, khắc cốt huyền thoại này. Phan Bội Châu khi đã trở thành Ông già Bến Ngự (bị Pháp giam lỏng ở Huế) đã có giãi bày tâm sự ngổn ngang của một tấm lòng ái quốc luôn đau đáu với vận mệnh của dân tộc. Trong bài thơ “Ðêm trăng hỏi bóng”, ông tự trào về bản thân mình, nhưng không quên mình là “Nòi Rồng Tiên”:

Lạ lùng cho mụ bà trời,
Thình lình đẻ rớt một người là ông.
Òa một tiếng non sông nứt nẻ,
Nòi Rồng Tiên xin kể một người”

Sau Phan Bội Châu, một danh nhân lịch sử hiện đại bôn ba khắp năm châu bốn bể, Hồ Chí Minh trong bài thơ “Lịch sử nước ta”, cũng đã viết:

“Hỡi ai con cháu Rồng Tiên!
Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau.”

Bài thơ được Bác sáng tác năm 1942, đã sử dụng huyền thoại Rồng Tiên để kêu gọi đồng bào đồng lòng, đồng tình, đồng sức để đánh đuổi thực dân Pháp.

Mảng chạm rồng, tiên tại tiền đường đền vua Đinh

Cách đây tròn 10 năm, tại Paris, lần đầu tiên, hình ảnh tiên nữ đến từ các ngôi đình Bắc Bộ đã ra mắt ở trời Tây. Triển lãm do Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam tổ chức thực hiện. Và 10 năm sau, năm 2022 tại Hội chợ triển lãm thế giới Expo Dubai (Các tiểu vương quốc Ả Rập), hình ảnh Rồng Tiên qua hiệu ứng 3D mapping đã được trình chiếu trên vòm của tòa nhà Al Wasl Plaza. Biểu tượng thiêng liêng, đầy tự hào của người Việt đã bay bổng trên bầu trời Dubai. Hy vọng, trong thời gian tới đây, sẽ có những bộ phim đậm chất sử thi về truyền thuyết Cha Rồng Mẹ Tiên. Những hình ảnh giàu cảm xúc, mang những giá trị tâm linh, biểu tượng sâu sắc ở đền vua Đinh, vua Lê (Hoa Lư, Ninh Bình) chắc chắn là những tư liệu tham khảo quan trọng nhất.