Bài: PHẠM MINH QUÂN
Ảnh INTERNET
Bài Văn chương, với đặc trưng điển hình hóa cao, đã giúp tình yêu đôi lứa trở nên bất hủ và vượt thời gian.

Tình yêu là gì? Câu hỏi ngỡ đơn giản và phổ thông nhất thế gian, nhưng không dễ để trả lời. Mỗi nền văn hóa sở hữu nhiều thuật ngữ về ái tình với cung bậc khác nhau, như Hy Lạp cổ đại có tới bảy. Hơn nữa, phải tới hàng nghìn cách hiểu, quan niệm thành lời về tình yêu, và con số này sẽ không dừng lại, bởi mỗi chúng ta lại có thể có một định nghĩa riêng từ trải nghiệm cá nhân. Một điều chắc chắn, con người khó sống nếu thiếu tình yêu.
Nhà tâm lý học xã hội người Đức thế kỷ 20, Erich Fromm, từng khái quát nguyên lý của tình yêu một cách rất thú vị: “Tình yêu trẻ con theo nguyên tắc: ‘Tôi yêu vì tôi được yêu’. Tình yêu trưởng thành theo nguyên tắc: ‘Tôi được yêu bởi vì tôi yêu’. Tình yêu non dại nói: ‘Tôi yêu anh vì tôi cần anh’. Tình yêu trưởng thành nói: ‘Tôi cần anh vì tôi yêu anh’”. Như vậy, tình yêu không có hình thái cố định. Trong tình yêu, có cả hồn nhiên, khát khao, si mê, ích kỷ, chiếm hữu và chứa đựng bổn phận lẫn hy sinh.
Chủ đề tình yêu chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong văn học, kể từ khi nghệ thuật này mới ra đời. Trải qua nhiều thế kỷ, tình yêu đôi lứa được văn học miêu tả qua nhiều sắc thái, từ tình yêu lãng mạn, tình yêu được đền đáp, tình yêu xác thịt, tình yêu tinh thần, tình yêu bất khả, tình yêu đã mất và tình yêu đơn phương. Đề tài chiếm phần lớn trong số những tác phẩm văn học kinh điển trên thế giới và Việt Nam, là về tình yêu.
Tình yêu mãnh liệt nhưng không kém phần bi kịch giữa nam và nữ là một chủ đề trung tâm trong văn học châu Âu cổ – trung đại. Pyramus và Thisbe, Antony và Cleopatra, Tristan và Isolde, Lancelot và Guinevere, Aeneas và Dido, Troilus và Criseyde, Dante và Beatrice, Petrarch và Laura, Romeo và Juliet, đã trở thành những hiện thân văn chương kinh điển của tình yêu lứa đôi. Đa phần bi kịch của những cặp tình nhân này ở chỗ, tình yêu
không chỉ là sự liên minh của hai cá nhân lẩn tránh nỗi cô độc, mà còn là đương đầu với cả thế giới. Ràng buộc ngang trái giữa Antony và Cleopatra là quốc gia, đế chế, Tristan và Isolde là trách nhiệm và lòng trung thành, Dante và Beatrice là khoảng cách giữa hai thế giới, còn Romeo và Juliet là gia đình và dòng tộc.
Văn học phương Tây cũng có sự vận động, từ những nguyên mẫu có thật ngoài lịch sử tới nhân vật hư cấu, từ nhân vật nam làm trung tâm đến nhân vật nữ, lấy tình yêu để mở rộng sang các vấn đề như giới, xung đột xã hội, tự do, bản sắc và sự khác biệt. Hai nhân vật Bà Bovary và Anna Karenina trong hai tiểu thuyết thế kỷ 19 cùng tên lần lượt của Gustave Flaubert và Lev Tolstoy đại diện cho một quan niệm về phụ nữ, về hôn nhân cấp tiến hơn so với thời đại họ sống. Anna Karenina và Emma Bovary đều là những phụ nữ không hài lòng với vị thế xã hội của mình và tìm cách thoát khỏi khế ước xã hội, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho bản thân, bất chấp giá đắt phải trả. Họ nhắc nhở chúng ta rằng, cuộc đấu tranh của phụ nữ vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay.

Khi nhìn sang văn học Việt Nam, cụ thể là văn học trung đại, có thể thấy rõ sức ảnh hưởng Nho giáo, vốn đề cao giáo hóa và tu thân, nên cái cá nhân, trong đó có yếu tố tình yêu, ít nhiều bị tiết chế và coi nhẹ, hoặc phải nhường chỗ cho những tình cảm lớn lao hơn như “trung quân ái quốc”. Tuy nhiên, tình yêu lứa đôi vẫn hiện diện trong văn học dân gian qua những hình tượng gợi hình thi vị (“khăn thương nhớ ai, khăn rơi xuống đất” – ca dao) và cả những mối tình kinh điển thành văn.
Nhắc đến Truyện Kiều của Nguyễn Du, một thi phẩm truyện thơ Nôm vĩ đại, không thể không nhắc đến mối tình Thúy Kiều – Kim Trọng, thủy chung son sắt vượt qua bao bể dâu, sóng gió. Dù chịu ảnh hưởng của chuẩn mực Nho giáo, nhưng Nguyễn Du vẫn đề cao tinh thần tự do trong tình yêu, ngợi ca người con gái chủ động vì tình yêu.
Một mối tình lãng mạn, tinh tế khác không bị gò ép, câu thúc bởi lễ giáo phong kiến, yêu và dám yêu, đó là giữa Phạm Kim và Trương Quỳnh Thư trong Sơ kính tân trang của nhà thơ Phạm Thái viết đầu thế kỷ 19, dựa trên chuyện tình của tác giả. Mặc dù câu chuyện đời thực kết thúc trong đau khổ và tử biệt, nhưng tình yêu thông qua văn học lại được bất tử hóa, mang lại một cái kết có hậu qua sự tái thế tương phùng, vượt ra khỏi hiện thực. Đến thời cận – hiện đại, bắt đầu sự giao lưu văn hóa với phương Tây, diện mạo tình yêu trong văn học Việt Nam cũng đổi khác và mang những vấn đề mới. Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách được coi là “tiểu thuyết tình yêu” đầu tiên của miền Bắc Việt Nam, đặt tình yêu nam nữ đối diện với cuộc hôn nhân do cha mẹ sắp đặt. Hay đề tài tình yêu trong tác phẩm của Tự Lực văn đoàn là một cuộc cách mạng, nhằm phản kháng những giá trị của xã hội cũ đã trở nên lạc hậu, lỗi thời.
Độc giả của văn học dù ở bất kỳ thời đại nào, sẽ thấy rằng, dẫu con người nhìn nhận tình yêu theo nhiều cách, nhưng ý tưởng cơ bản không hề thay đổi. Do đó, cho dù người ta đọc thấy khát khao dịu dàng của chuyện tình Shakespeare, kỳ vọng không thể đạt được trong truyện của Jane Austen hay tình yêu đương đầu với định kiến xã hội trong tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng, thông điệp về tình yêu dưới muôn vàn hình thức của nó vẫn giống nhau: “Yêu là yêu”.
Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: