Bài: Nguyễn Phước Bảo Đàn
Ảnh: Nguyễn Phong
Những lớp sơn son là màu nền đằm thắm, những chi tiết thếp vàng mang lại sự óng ả cho đường nét cần thể hiện trong chiều sâu thị giác. Thoạt nhìn có vẻ rất đơn giản, nhưng ẩn sau sự lộng lẫy, sắc màu quyến rũ của quý kim trong không gian nội thất, trong những vật dụng vốn chỉ dành cho tầng lớp thượng lưu dưới thời quân chủ, là cả một quá trình lao động nhọc nhằn cùng đôi bàn tay tài hoa của người thợ – những người chọn lấy nghề sơn son thếp vàng làm sinh nghệ cho mình.
Tôi từng nghĩ rằng, người Trung Hoa vốn rất chuộng dùng ngọc, người Ấn Độ có cả một nền văn hoá gắn liền với kim cương. Người Việt Nam với vị trí của một cộng đồng nằm giữa 2 nền văn minh lớn ấy lại rất ưa thích kim loại vàng. Nhưng rồi khi nghĩ lại, tôi lại thấy cả thế giới này đều sử dụng vàng. Vàng như một loại tiền tệ, vàng làm nên những bộ trang sức để khẳng định vị thế trong xã hội, vàng được sử dụng để tô vẽ nên không gian sống. Mà có lẽ, người Việt đã có một chút khác biệt so với nhiều dân tộc khác trên thế giới, thay vì dùng vàng để phủ tràn không gian sống, họ đã dùng nó một cách chừng mực, chỉ đủ để trang điểm cho nơi sống, tạo nên nét hào nhoáng qua những chi tiết nhấn sống động mà cũng rất tinh tế cho nội thất kiến trúc.
Những bàn tay tạo tài khéo…
Sơn son thếp vàng vẽ nên những đường sáng mềm mại, huyền ảo trong không gian vốn mang màu trầm chủ đạo của gỗ. Việc thếp vàng tạo nên sự kỳ ảo, lung linh qua sự phản chiếu của ánh sáng. Và hơn thế, nó còn tạo nên nếp hằn trong tâm thức của những người từng chiêm cảm không gian nội thất qua các đường nét ấn tượng, làm nổi bật những góc tối của kiến trúc, và còn là cách để trao truyền truyền thống giữa nhiều thế hệ.
Từ những lớp sơn đầu tiên được quét lên bề mặt gỗ, người thợ sơn thếp dùng sơn ta, nguyên liệu mà mất hàng tháng mới ra được thành phẩm qua nhiều công đoạn lọc, pha chế để ra được nhiều sắc màu. Cùng với những phụ gia khác như mùn cưa, đất phù sa, than xoan… với bộ công cụ đặc thù như thép sơn, dao trổ, bút vẽ, mo sừng, đá mài…, người thợ bắt đầu dùng lửa để làm nhẵn những phần gồ trên đường nét điêu khắc. Sau đó là sơn các lớp bó, lớp hom, lớp vóc rồi mới thếp vàng, và cuối cùng quét phủ thêm một đến hai lớp sơn nữa nhằm tạo nên độ bóng và bảo vệ bề mặt.
Quy trình sơn son thếp vàng thoạt trông thì có vẻ đơn giản, nhưng ẩn chứa bên trong là quá trình đúc rút kinh nghiệm của nhiều thế hệ người thợ cùng đôi bàn tay khéo léo. Nhiều người trong số họ nói rằng, nghề này rất cần sự tỉ mỉ, nhẫn nại và không có chỗ cho sự sai sót. Có thể bởi nguyên liệu của họ là nguồn sơn ta được chế tác theo những công thức bí truyền và loại vàng quỳ được làm từ kim loại vàng rất quý giá. Nói là tỉ mỉ, bởi trong quá trình trùng tu Điện Thái Hoà ở Cố đô Huế, các chuyên gia đã bóc tách đến 14 – 16 lớp sơn son trên cấu kiện. Nói là nhẫn nại bởi các công đoạn sơn thếp cần được thực hiện trong không gian kín gió. Và, phải mất nhiều thời gian, qua nhiều thế hệ mới đúc rút ra kinh nghiệm, bởi tuỳ vào thời tiết như nắng nóng, hanh khô, nồm ẩm… người thợ có cách để nhận biết và căn chỉnh thời gian để thực hiện các lớp sơn.
… cho không gian nội thất lộng lẫy ánh hoàng kim
Miền Trung Việt Nam là xứ sở của vàng, dưới thời các chúa Nguyễn, việc khai thác vàng được phủ Chúa khuyến khích và nguồn lợi từ việc thu thuế đã trở thành một phần ngân sách quan trọng cho chính quyền. Các chúa Nguyễn cho thành lập Nội Lệnh sử ty chuyên trách việc thu nhận vàng, Ngân tượng ty chuyên việc tinh luyện vàng bạc và Nội Kim tượng cục chuyên chế tác vàng thành phẩm, đồ trang sức phục vụ đời sống hoàng gia. Từ cuối thế kỷ 17 (năm 1695), Thạch Liêm hòa thượng, một danh tăng người Trung Hoa đến Đô thành Phú Xuân theo lời mời của Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu đã mô tả phủ chúa trong tác phẩm Hải ngoại kỷ sự, rằng nhà cửa đền đài đều chạm trổ và sơn thếp tỉ mỉ, các chúa Nguyễn dùng toàn đồ làm bằng vàng và bạc được chế tác rất công phu.
Hình ảnh Đô thành Phú Xuân như mô tả của hòa thượng là sản phẩm của những đội lính thợ có nguồn gốc từ đất Bắc, theo chân các chúa Nguyễn vào Nam và được biên chế vào các quan xưởng chuyên trách việc xây dựng. Dưới thời các vua Nguyễn, bộ phận này trở thành Tất tượng ty chuyên trách việc sơn thếp cho các vật dụng lẫn kiến trúc cung đình. Ở Huế hiện nay, cư dân làng Tiên Nộn (xã Phú Mậu, thành phố Huế) được xem là nơi còn giữ được nghề sơn mài và sơn son thếp vàng.
Trải qua nhiều biến động, những nhóm thợ sơn thếp ngày xưa thuộc Tất tượng ty ly tán khắp nơi, nhưng họ vẫn trao truyền cho con cháu giữ lấy sinh nghệ. Và rồi công cuộc trùng tu các kiến trúc cung đình Huế đã một lần nữa tạo điều kiện cho họ trở về, cùng nhau thao tác những kỹ thuật truyền đời. Họ từng bước, từng bước trả lại cho Huế nét vàng son vốn có.
Nhiều người nói rằng, ở Huế, cái ranh giới giữa kiến trúc cung đình và dân gian khá mong manh và khó lòng phân định. Nhận định này thật đúng với nghề sơn thếp. Từ nội thất cung điện, vật dụng của hoàng gia, đến những bức hoành phi, đối liễn bày trí trong các phủ đệ, dinh thự của quan lại, rồi không gian nội thất của các đình chùa, các án thờ, đồ khí tự…, đâu đâu cũng nhìn thấy những nét vẽ bằng vàng tinh tế trên nền sắc đỏ son.
Đến Huế, khi đứng giữa những cung điện được nhiều bàn tay dày công sơn thếp, bạn hãy dành thời gian để lắng mình để cảm nghiệm. Những gam màu tự nó đã nói lên ước vọng ngàn đời của nhiều thế hệ dựng xây: màu đỏ tượng trưng cho sinh khí, sức sống; màu vàng tiềm ẩn nét cao sang, tinh thần giải thoát; và sự hòa quyện màu sắc của chúng đã chuyển tải ước vọng của tiền nhân về một không gian sống ngập tràn sinh khí.
Và đó cũng là một trong những hình ảnh sinh động, minh chứng cho sự hồi sinh mãnh liệt của di sản Huế hiện nay.
Xem thêm bài viết liên quan:


