Bài: Vân Anh
Ảnh: Văn Việt
Khi những ánh nắng đầu tiên của ngày mới còn e ấp bên những rặng dừa nước, Cửa Đại đã khẽ lay mình thức giấc. Trong làn sương mỏng manh của sớm mai cùng tiếng mái chèo nhè nhẹ khua trên mặt nước đưa theo nhịp thở của biển, những chiếc rớ chồ hiện ra – trầm mặc như ký ức, vững chãi như chính những phận người đã gắn cả đời mình với sóng nước. Chúng không chỉ là công cụ đánh bắt cá, mà là biểu tượng của một đời sống bền bỉ nơi làng chài ở khu vực Cửa Đại, Đà Nẵng.

Nhịp rớ chồ của người Cửa Đại
Là nơi giao nhau của 3 dòng sông Thu Bồn, Trường Giang và Đế Võng trước khi đổ ra biển, Cửa Đại nằm cách trung tâm phố cổ Hội An chỉ chừng vài cây số và mang trong mình dáng vẻ của sự khoáng đạt, thô mộc và gần như nguyên sơ.
Làng chài ở khu vực Cửa Đại không lớn, nhưng là một phần linh hồn của vùng đất này với những mái nhà lợp tôn cũ kỹ nằm lọt thỏm giữa hàng dừa, những chiếc thuyền nhỏ neo bên bến sông, và đặc biệt là nhiều chiếc rớ chồ nằm rải rác từ hạ nguồn sông Thu Bồn đến vịnh Cửa Đại. Từ lâu, hình ảnh ấy đã trở thành biểu tượng của đời sống sông nước nơi này. Một chiếc rớ thường rộng khoảng 60m2, được giăng cố định bằng dây thừng và bốn cây tre lớn cắm sâu xuống lòng sông. Từ đó, hệ thống dây tời dẫn về chòi canh (chồ rớ), nơi có trục quay để nâng rớ lên mặt nước.
Vật dụng đồng hành của người dân trong những buổi “canh rớ” rất đơn giản: một chiếc nón, đèn măng xông và thanh tre vót mảnh để thao tác với lưới. Mỗi công đoạn – từ thả rớ, néo rớ cho đến kéo rớ – đều phụ thuộc vào kinh nghiệm về con nước, hướng gió và cả trực giác trước biển. Mỗi lần kéo rớ là một lần thử sức của đôi chân, mỗi lần néo rớ thì phải đợi lúc con nước đứng, và mỗi lần thu hoạch cá tôm từ chiếc lỗ nhỏ nằm bên dưới bụng rớ thì cũng phải chú ý hướng gió khi chèo ghe để quá trình này được thuận lợi và dễ dàng. Vậy mới nói, dù trông có vẻ giản đơn nhưng nghề rớ chồ đòi hỏi sự kiên nhẫn, tỉ mỉ với kỹ thuật và kinh nghiệm lâu năm.

Mưu sinh giữa lòng sông nước
Đến với Cửa Đại vào một sớm mùa hè, tôi may mắn được gặp và tâm sự với chú Mười – người ngư dân đã gắn bó với nghề rớ chồ, tính đến nay đã ngót nghét 40 năm.
“Nghề ni cực, cực lắm cô ạ!” – chú Mười vừa nói vừa nở nụ cười hiền hậu trên khuôn mặt rám nắng. Chú Mười kể, rớ chồ là nghề của tổ tiên để lại: “3 đời nhà tui xưa giờ theo nghề nhưng mà cực quá cô ạ, nên anh em tui giờ đi làm ăn xa hết, chỉ còn tui ở lại với rớ chồ”. Chú thở dài nhưng tôi cảm nhận được đâu đó trong ánh mắt chú vẫn lấp lánh niềm tự hào.
Một ca làm việc của chú Mười bắt đầu từ 6 giờ tối đến tầm 6 – 7 giờ sáng hôm sau, từ lúc hoàng hôn đến khi bình minh chiếu rọi cả vùng cửa biển. Một mùa rớ chỉ kéo dài từ tháng Chạp đến cuối tháng 8 âm Lịch, tránh những tháng miền Trung oằn mình giữa mưa bão.

Hình ảnh chú Mười thăm rớ lưu vào kí ức tôi bóng hình nhỏ bé nhưng vững chãi giữa làn sương sớm, giữa ánh nắng dát vàng lấp lánh trên những hạt nước nhỏ đọng lại trên chiếc rớ vàng ươm. Chú như đang đại diện cho những ngư dân Cửa Đại rắn rỏi, kiên định, cố gắng gìn giữ những giá trị văn hóa riêng của làng chài này.
Trong không gian của Cửa Đại – nơi giao thủy của các dòng sông, rớ chồ đóng vai trò như chiếc cầu nối giữa con người và thiên nhiên, giữa quá khứ và hiện tại. Với chú Mười và những ngư dân nơi đây, nghề không chỉ là miếng cơm manh áo, nghề còn là sợi dây gắn kết với làng chài, với tổ tiên bao đời.
Trong bối cảnh hiện đại hóa, khi một số nghề truyền thống đang dần có nguy cơ bị mai một như lẽ tất yếu, những chiếc rớ chồ vẫn vững chãi giữa gió sương. Và như thế, câu chuyện của chú Mười không chỉ là câu chuyện về người đàn ông làng chài gắn bó với mặt nước, mà còn là câu chuyện chung về sự bền bỉ bảo tồn giá trị truyền thống của người dân nơi đây giữa dòng chảy của cuộc đời. Hãy một lần đến Cửa Đại, thức dậy thật sớm, lắng nghe nhịp sóng vỗ nhẹ vào rớ, biết đâu bạn sẽ cảm nhận được tiếng lòng từ nhịp sống nơi sông nước miền Trung.
Xem thêm bài viết liên quan: