Trương Quý

“Đây Bạch Đằng giang, sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng, giống anh hùng, Nam Bắc Trung!” – nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã mở đầu ca khúc về sông Bạch Đằng bằng một cảm hứng huyền thoại về đất nước, từ dấu tích những trận thủy chiến giữ nước của các triều đại xa xưa. Tình tự này có cội rễ từ nền văn minh các dân tộc Việt Nam đã gắn bó với một hệ thống dày đặc các con sông. Mỗi lưu vực sông lại là địa bàn cư trú của con người qua hàng nghìn năm. Mỗi dòng sông kể một câu chuyện, góp vào thiên sử ký sống động của nước Việt.

Sông Đà đoạn chảy ra tỉnh Hòa Bình

Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng

Việt Nam có hơn 2.000 con sông dài trên 10km, trong đó trên 100 sông chính, có tác dụng cung cấp nước và là đường giao thông thủy. Nhiều thế kỷ trước, khi mạng lưới đường bộ và phương tiện giao thông hạn chế, đường thủy là huyết mạch của đất nước. Con sông đầu tiên phải kể đến là sông Cái, nghĩa là sông Mẹ, mà ngày nay ta quen thuộc với cái tên sông Hồng, có độ dài 510km trên lãnh thổ Việt Nam. Con sông lớn nhất miền Bắc đã gắn với những vùng đất cổ của người Việt, chứng kiến sự tồn vong của các triều đại, tạo ra một phức hợp biểu tượng về con sông chảy suốt chiều dài lịch sử và hơn nữa, một nền văn minh riêng biệt. Hồng Hà chảy qua Thăng Long, kinh đô của nhiều triều đại, đóng vai trò một hào nước tự nhiên bảo vệ cho kinh thành. Con đường dời đô của Lý Công Uẩn từ Hoa Lư ra Đại La năm 1010 cũng bằng đường sông, và huyền sử chép khi đến đây, vị vua nhìn thấy những đám mây hình rồng bay lên, cho đặt tên là Thăng Long.

Sông Lô, sông Đà, hai chi lưu lớn nhất của sông Hồng cũng ghi tên vào lịch sử hiện đại khi tại những nơi này diễn ra các chiến thắng đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam năm 1947 – 1948 trong kháng chiến chống Pháp. Các nhạc sĩ cách mạng đã viết hàng loạt bài hát lấy cảm hứng từ những sự kiện này, tạo ra những biểu tượng lịch sử: “Sông Lô! Sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u! Thu ru bến sóng vàng, từng nhà mờ biếc, chìm một màu khói thu” (Sông Lô – Văn Cao).

Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: “Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng” khi nhắc chiến thắng Bạch Đằng, biểu tượng cho công cuộc chống ngoại xâm. Sông Bạch Đằng, nơi đã ghi dấu những trận thủy chiến của Ngô Quyền trước quân Nam Hán vào thế kỷ 10, Lê Hoàn trước quân Tống thế kỷ 11 và nhất là của nhà Trần trước quân Nguyên Mông thế kỷ 13, còn để lại dấu vết những bãi cọc bằng thân cây lim đóng xuống lòng sông. Các trận địa mai phục bằng cọc đã dẫn đến chiến thắng của quân Đại Việt. Ngày nay, sông Bạch Đằng là một nhánh trong hệ thống sông dày đặc ở vùng cửa biển giữa Quảng Ninh và Hải Phòng, tiếp giáp vịnh Hạ Long, vùng kinh tế du lịch hấp dẫn bậc nhất Việt Nam.

Sông Lam (Nghệ An)

Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm

Vùng Bắc Trung Bộ tiếp nối châu thổ Bắc Bộ bằng những đồng bằng sông Mã, sông Chu, nơi có những dấu vết cư trú thời tiền sử và trong lịch sử nổi tiếng với các trung tâm chính trị như thành Tây Đô nhà Hồ, Lam Kinh nhà Lê, hay đất quê hương của chúa Trịnh và nhà Nguyễn. Sông Lam, sông La vùng Nghệ An – Hà Tĩnh lại gắn với những thế hệ danh nhân khoa bảng nhiều thế kỷ. Từ đây trở đi, dải đất hẹp miền Trung bị chia cắt bởi nhiều con sông ngắn, cũng chính là những mốc đánh dấu quá trình Nam tiến của người Việt. Lịch sử đã khiến cho những con sông ngắn này trở thành những ranh giới chia cắt. Sông Gianh đã từng là ranh giới Đàng Trong và Đàng Ngoài, cũng như sông Bến Hải thành nơi chia Việt Nam làm hai miền trong hơn 20 năm từ năm 1954.

Cách không xa sông Bến Hải, sông Thạch Hãn chảy qua thành cổ Quảng Trị, chứng kiến những cuộc giao tranh khốc liệt mùa hè năm 1972, để lại những câu chuyện bi tráng bên dòng sông, nơi hàng vạn người lính đã ngã xuống. “Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ! Đáy sông còn đó bạn tôi nằm. Có tuổi hai mươi cùng sóng nước. Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm” (Lê Bá Dương). Xuôi về Nam, con sông Hương làm nên linh hồn của cố đô Huế, lại êm đềm tương phản với quá khứ đầy biến động và làm dịu mát sự khắc nghiệt của khí hậu miền Trung. Bề dày lịch sử của con sông chảy qua kinh đô của vương triều Nguyễn đã bắt đầu từ khi các chúa Nguyễn lập nên xứ Đàng Trong vào thế kỷ 17, chọn Phú Xuân làm thủ phủ mà sau này được gọi là Huế.

Sông Hàn chảy ra cửa biển vịnh Đà Nẵng, hay những tên sông Thu Bồn, Trà Khúc… ở lại với lịch sử khi quá khứ vẫn lưu dấu đôi bờ.

Miệt mài chảy mãi không nguôi

Con sông từng làm nên địa danh một tỉnh miền Nam – Đồng Nai, cũng là dòng sông chảy trong lãnh thổ Việt Nam dài nhất, 586km. Câu ca dao đã ghi lại khung cảnh của những dòng sông mênh mông: “Nhà Bè nước chảy chia hai/ Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về”. Bên dòng Đồng Nai, các phố thị sầm uất như Cù Lao Phố cùng các dinh trấn như Trấn Biên hay Gia Định đã được thiết lập từ hơn ba thế kỷ. Lịch sử của thành phố lớn nhất Việt Nam, Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh, được ghi nhận khi phủ Gia Định được thành lập năm 1698, bắt đầu nhánh sông Sài Gòn rẽ nhánh từ ngã ba Nhà Bè, nơi khúc sông Đồng Nai còn có tên Soài Rạp.

Lịch sử các con sông miền Nam Bộ thực tế đã gắn với những nền văn minh có từ hai thiên niên kỷ trước, như các di chỉ của văn hóa Phù Nam và Óc Eo ở đồng bằng sông Cửu Long. Những cái tên như Gò Tháp hay Đồng Tháp Mười đã gợi nhắc đến những dấu vết cổ xưa. Cửu Long chính là một cách gọi mang cái nhìn tổng thể địa lý của người Việt cho các nhánh hạ lưu sông Mê Kông, đã trở thành nguồn nước cho vựa lúa lớn nhất Việt Nam, gắn với lịch sử tạo dựng một nước Việt có hình thể “từ Nam Quan đến mũi Cà Mau” như ngày nay.

Hơn 2.000 con sông chảy trên nước Việt đã định hình một ký ức lịch sử của cộng đồng. Chúng không chỉ bồi đắp phù sa thực thể mà còn lắng đọng những tầng văn hóa, nơi dòng sông là trang sử ký như bài hát Chảy đi sông ơi (Phó Đức Phương) đã đúc kết bằng giai điệu: “Chuyện bao đời sông biết cả, miệt mài chảy mãi khôn nguôi”.

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: