Bài XUÂN THU
Ảnh KHOA TRẦN, INTERNET

Trong kí ức của nhiều người Hà Nội xưa, không thể không nhắc đến những chiếc áo chần bông được các bà, các mẹ chần cho con trong mỗi dịp đông về hay Tết đến. Cùng nhà thiết kế Xuân Thu bước vào câu chuyện lịch sử – văn hóa của chiếc áo chần bông theo sự thăng trầm của mảnh đất Hà thành.

Chiếc áo chần bông được thiết kế bởi NTK Xuân Thu

Tấm áo lịch sử của đất Thăng Long

Chiếc áo chần bông đầu tiên của người Việt Nam ra đời từ thời điểm cụ thể nào, tư liệu lịch sử không ghi rõ. Chỉ biết rằng từ khi người dân làng nghề Trát Cầu (huyện Thường Tín) biết đến nghề bật bông, làm chăn bằng bông để đắp, thì chiếc áo chần bông cũng dần trở nên phổ biến quanh khu vực kinh thành Thăng Long xưa. Sự xuất hiện của chiếc áo chần bông đã giúp cư dân Thăng Long thời ấy, từ tầng lớp quý tộc, quan lại, đến bình dân và người dân lao động nghèo, có thể chống chọi và vượt qua được những trận gió rét của mùa đông. Vì thế mà chiếc áo này được mọi tầng lớp ưa chuộng.

“Trải mấy xuân tin đi tin lại

Tới xuân này tin hãy vắng không

Thấy nhạn luống tưởng như phong

Nghe hơi sương sắm áo bông sẵn sàng”

(Trích Chinh phụ ngâm – bản dịch của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm)

Ban đầu, về kỹ thuật, chiếc áo chần bông được khâu tay. Mỗi tầng lớp lại có kiểu khâu khác nhau. Chiếc áo bông của tầng lớp lao động nghèo chỉ giản đơn bằng chất liệu vải nâu, trong khi với tầng lớp quý tộc thì chiếc áo bông được may bằng vải nhung, lụa để may lớp áo ngoài, thậm chí sang hơn nữa bằng vải gấm. Càng về sau, những người thợ may đã biết dùng máy khâu để kết nối ba lớp áo với nhau bằng các đường chỉ may khéo léo. Các điểm trên mặt vải lún xuống là nút chần bông, đều đặn tăm tắp như được sao chép tỉ mỉ. Độ lún của từng nút chần bông nông hay sâu phụ thuộc vào từng chất vải được may kèm cùng với lớp bông mịn ở giữa.

Mẫu áo chần bông của NTK Đức Hùng

Sự xuất hiện của chiếc áo chần bông đã giúp cư dân Thăng Long xưa, từ tầng lớp quý tộc, quan lại, đến bình dân và người dân lao động nghèo, có thể chống chọi, vượt qua được những trận gió rét của mùa đông.

Mang màu hoài niệm

Tôi vẫn nhớ, mỗi khi Tết đến, bà nội thường diện áo chần bông, đội chiếc khăn nhung the đen, bên trong mặc áo cánh trắng, áo len đan hạt lựu màu mận. Bà mặc với quần lá tọa, chân đi guốc sơn mài. Bộ trang phục bà mặc là dấu ấn đậm nét về cách ăn vận của người phụ nữ Bắc bộ khi trời trở lạnh.

Sau này trong thời kì bao cấp, những chiếc áo bông không còn được làm bằng chất liệu nhung the đen nữa mà thay vào đó là vải cotton, vải pha nilon hoặc thậm chí là vải thô, bố.

Với trẻ em, những chiếc áo chần bông – dù hơi nặng – nhưng trở thành chiếc áo giữ ấm đặc biệt. Trong truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa, nhà văn Thạch Lam đã viết về chiếc áo bông và tấm lòng nhân hậu của bé Sơn khi tặng chiếc áo bông cho Hiên vào mùa đông giá rét. Thời đó, những em bé Hà Nội được bố mẹ diện cho những chiếc áo chần bông mới xúng xính đi chơi Tết. Thế nên, thế hệ 7x và 8x ngày nay nhớ đến áo chần bông là nhớ đến một thời Hà Nội bao cấp xưa và một cái Tết quây quần trong cái lạnh đặc biệt. Nhớ về cái lạnh của Hà Nội, NSND gốc Hà thành – Lê Khanh chia sẻ: “Tết Hà Nội có cái rét không giống ở quốc gia nào. Bởi thế, chỉ có chiếc áo bông ngắn và tấm khăn nhung the, mới làm nên bộ trang phục Tết đẹp truyền thống với mọi thời đại”.

Áo chần bông được thêu tay một cách cầu kỳ và tinh tế

Ngày nay, áo chần bông vẫn được làm thủ công ở các công đoạn. Ngoài vẻ đẹp khác biệt, chiếc áo còn vô cùng tiện dụng bởi kỹ thuật thiết kế, nên áo có thể dùng được hai mặt. Người diện áo bông có thể sử dụng hai mặt như hai trang phục riêng biệt, để kết hợp với những trang phục khác nhau trong nhiều dịp. Cũng chính bởi việc khâu thủ công khá cầu kỳ, nên chiếc áo chần bông trở nên xa xỉ hơn với giới trẻ và người thu nhập trung lưu. Chỉ đến dịp Tết đến, chiếc áo chần bông mới được đem ra, kết hợp một cách tinh tế cùng bộ áo dài truyền thống để nhớ về Hà Nội và những mùa đông đã qua.

Xem thêm bài viết liên quan: