Bài: Nguyễn Phước Bảo Đàn
Ảnh: Lê Trung
Từ những cứ liệu lịch sử – khảo cổ học, vào thế kỷ đầu Công nguyên, sông Ba (hay còn gọi là sông Đà Rằng) là dòng sông hiếm hoi trên dải đất miền Trung được lưu dấu trên bản đồ hàng hải của người La Mã với tên gọi Dairios. Đó là điểm dừng chân quan trọng trên con đường mậu dịch hải thương thời cổ đại, là điểm đến chứa nhiều điều kỳ thú. Con sông này giữ vai trò cửa ngõ, mở lối đến những miền đất mới lạ cần khám phá.

Dòng sông giàu truyền thống…
Bắt nguồn từ vùng sơn địa Ngọc Rô của dãy núi Ngọc Linh ở Quảng Ngãi, chảy qua Gia Lai và Đắk Lắk trước khi đổ ra biển Đông, Đà Rằng là kết quả của cuộc hôn phối bởi 2 dòng Ia Pa và Ayun – sông Cha và sông Mẹ theo cách gọi của người Jarai bản địa.
Ở nơi thượng nguồn, Đà Rằng kết nối “miền đất huyền ảo” như cách gọi của các học giả người Pháp. Nơi đây tồn tại nhiều bí ẩn trên khía cạnh văn hóa tộc người với sự hiện diện của M’tao, Pơtao Apui, Pơtao Ea (Thủ lĩnh, vua Lửa, vua Nước) nắm giữ nhiều quyền năng trong mối quan hệ giao tiếp với thần linh. Băng qua vùng cư trú của người Ê Đê Mdhur, đến vùng bán sơn địa Sơn Hòa, Sông Hinh (Đắk Lắk), dòng sông chở nặng phù sa bồi đắp cho đồng bằng Tuy Hòa màu mỡ, rồi lại tiếp tục giữ vai trò cửa ngõ kết nối những ngôi làng ven biển với miền đất phía Tây.
Tấn Đà Diễn – cửa sông Ba từng được ghi chép rất cẩn trọng trong sử sách triều Nguyễn bởi vị trí hiểm yếu, được tạo hóa sắp bày một đại lộ đi thẳng lên vùng lâm lộc trù phú ở cao nguyên phía tây – nơi có trầm hương, sừng tê, ngà voi, cùng các loại hương liệu quý giá. Đây là nguồn lợi mang lại thịnh vượng và quyền lực cho những ai từng làm chủ vùng đất này trong quá khứ.

… với bức khảm văn hóa đa dạng ở đôi bờ
Trên chiều lịch đại, dưới thời kỳ Champa, vùng đồng bằng Tuy Hòa là nơi có nhiều công trình phân bố trên khu vực hạ nguồn của dòng sông. Các vết tích và di tích Champa hiện hữu hầu khắp. Từ bi ký Chợ Dinh khắc nơi chân núi Nhạn vào thế kỷ IV, Nhạn tháp, phế tích tháp Phú Lâm, thành Hồ, đoạn trường lũy, hệ thống giếng cổ của người Chăm, đến những đầu tượng bằng đá sa thạch, bi ký, phù điêu bằng đất nung,… từng lúc được phát lộ qua quá trình cư trú của người Việt hiện nay.
Với lợi nhuận lớn từ mạng lưới mậu dịch hải thương, từ rất sớm, nhiều thương nhân người Hoa đã có mặt ở lưu vực sông Ba và nhanh chóng thủ đắc tuyến giao thương giữa biển và rừng – biểu hiện rất đặc thù của mạng lưới “con đường muối” ở miền Nam Trung bộ Việt Nam. Những bến thuyền xưa ở hạ lưu dòng sông còn lưu dấu đây đó trong ký ức người già về một thời tấp nập. Chiếc ghe Kinh buôn bán dọc sông với lá buồm màu trắng như căn cước nhận diện của miền di sản. Có người bảo rằng Kinh là ghe của người Kinh, từ gọi phân biệt với thuyền độc mộc của người miền Thượng. Cũng có người lại cho rằng Kinh chính là “đi” – đi buôn Thượng. Mỗi chuyến đi như thế kéo dài đến hàng tháng của vợ chồng người chủ ghe, với các phẩm vật miền biển như mắm, muối, cá khô, chiêng, ché… chất ngập trong khoang; hoặc nông sản, lâm thổ sản quý giá đối với người đồng bằng trong lúc xuôi dòng. Buôn Thượng từng phổ biến đến mức, người địa phương dành hẳn câu ca về hoạt động này trong quá khứ:
“Trồng trầu bỏ lộn dây tiêu
Đi buôn đò dọc mẹ liều, con hư”.
Cùng với việc di chuyển trên sông, nhiều chợ phiên dần hình thành ở đôi bờ như là chốn dừng chân và trao đổi hàng hóa trong hải trình ngược xuôi đầy mệt nhọc. Và rồi xe thổ mộ, cộ bò, sức người, sức ngựa… đã được nhiều lớp người tận dụng để vận chuyển hàng hoá. Ở xứ hoa vàng trên cỏ xanh từng hình thành một làng chuyên nuôi và thuần dưỡng ngựa đi vào câu ca: “Ngựa từ Hòa Đa/ Ghe Kinh Đông Tác”. Và, hình ảnh chiếc xe thổ mộ đã hằn nên vết dấu trong ký ức của viễn khách từng đến với miền đất tươi đẹp này.

Sự trắc trở trong kiếm tìm sinh kế đã khiến các loại hình tín ngưỡng dân gian xuất hiện, làm nền tảng cho lẽ sống lẫn niềm tin. Những miếu thờ hiện diện trên lưu vực dòng sông ghi dấu nhiều lớp áo biến dưỡng văn hoá. Và thường niên, trên đôi bờ sông Ba, cư dân tổ chức nhiều lễ hội truyền thống như một cách để tiếp nối mạch nguồn của cá nhân mỗi người, của dòng tộc… và của cộng đồng làng thôn.
Đến với xứ sở hoa vàng trên cỏ xanh, bạn hãy một lần đi lên mạn ngược, trên con đường bộ ven sông quanh co uốn khúc, để thưởng ngoạn và trải nghiệm sự vô cùng. Cái vô cùng và thăm thẳm của dòng chảy, sự bao la của đất trời, lòng nhiệt tình và hiếu khách của người dân nơi thôn dã. Và nếu như có được phép màu để quay ngược thời gian, có lẽ cảm giác này còn được tăng thêm bội phần khi cùng với chiếc xe thổ mộ với tiếng lóc cóc và nhịp xóc liên hồi của bánh xe gỗ trên con đường đá sỏi.
Xem thêm bài viết liên quan: