Bài: Y My
Ảnh: Internet
Vẻ đẹp Á Đông thường nằm ở những điều không hiện hữu trực diện, nó mang tính gợi chứ không tả. Khi đi vào điện ảnh, cái đẹp ẩn tàng đó được biểu đạt đa sắc thái, từ bình lặng thâm sâu đến mãnh liệt dữ dội.

Tĩnh lặng, duy mỹ và thâmm sâu
“Lên núi cao sẽ thấy Tất cả mọi người
Trong ngôi làng cô đơn”
Xin mượn một bài thơ haiku (thể thơ ngắn của Nhật) để nói về sự quan sát tĩnh lặng trong điện ảnh Á Đông. Giống như thi sĩ haiku, các đạo diễn bậc thầy thường lưu lại dấu vết của cái đẹp bằng sự bỏ ngỏ, phiếm chỉ và những khoảng trống mênh mông. Họ không cố làm ra cái đẹp, mà để hình sắc sự vật tự lên tiếng. Cũng như bốn mùa chảy trôi và lặp lại, đẹp trong triết học phương Đông nằm ở chỗ không tạp niệm, không phán xét mà chỉ lặng yên ngắm nhìn sự hài hòa của sự vật.
Cái tên nổi bật hàng đầu của điện ảnh Á Đông là Trương Nghệ Mưu, với khả năng chuyên chở tinh thần Trung Hoa vào từng khung hình điện ảnh. Người xem thường thấy được cái đẹp ngoạn mục của thiên nhiên, kết hợp với âm thanh và góc máy rộng đặc trưng, đặt con người thành chủ thể nhỏ bé. Đó là mỹ học đặc trưng của Đạo giáo, tạo nên một cái đẹp hư vô và tràn đầy thần khí. Hầu hết các bộ phim của ông đều ấn tượng về mặt thị giác, đi cùng những tông màu chủ đạo: màu đỏ bức bối phủ kín Đèn lồng đỏ treo cao (1991), bữa tiệc màu sắc trong Thập diện mai phục (2004) hay sự mơ hồ như tranh thuỷ mặc của sắc đen, trắng trong Vô ảnh (2018).
Cái đẹp Nhật Bản thừa hưởng tính hư không của Đạo giáo Trung Quốc, nhưng tự rẽ sang con đường riêng bằng việc cộng thêm thẩm mỹ của sự bất toàn. Vì thế, đẹp trong điện ảnh Nhật gần gũi với 2 hệ tư tưởng: “wabi-sabi” (đẹp từ bản chất không hoàn hảo) và “yugen” (vẻ đẹp mờ ảo, thâm sâu). Nổi bật là đạo diễn Yasujiro Ozu với phong cách làm phim đổi mới, không tuân theo các quy ước của Hollywood. Thay vì chuyển cảnh thông thường, Ozu đưa khung hình tĩnh vào giữa các cảnh, có thể là tòa nhà, ấm trà hay tán cây, khoảng trời rộng lớn xen vào mạch phim tiết chế sự kịch tính. Sự tĩnh lặng có thể khiến phim của Yasujiro Ozu hay Akira Kurosawa bị cho là khó xem, chậm rãi đến mức lạ lùng, nhưng không ai phủ nhận chất Nhật trong từng khung hình, cùng những quan điểm mỹ học sâu sắc, gợi sự tò mò sau cảm giác thong thả. Họ nhặt cái đẹp ở những chi tiết nhỏ và tiến sâu vào nó, và điều lay động người xem không nằm ở sự chuyển động mà ở sự trầm lắng quan sát.
Trong số các nhà làm phim châu Á nổi tiếng tại phương Tây, Trần Anh Hùng là gương mặt Việt Nam đặc biệt nổi bật. Tính duy mỹ trong từng khung hình điện ảnh của Trần Anh Hùng đã khiến công chúng thế giới say đắm về một Việt Nam tuyệt đẹp. Từ bối cảnh Hà Nội trong Mùa hè chiều thẳng đứng (2000), tới không gian gia đình gốc Bắc tại Sài Gòn 1950 trong Mùi đu đủ xanh (1993), hay Xích lô (1995), phim của đạo diễn Trần Anh Hùng biểu đạt nội tâm dữ dội của con người qua nhịp điệu chậm rãi, nhẹ nhàng và êm ái của phim. Người xem thường thấy cách đạo diễn tả cận ánh mắt, ánh nắng, sự vật như loạt biểu tượng ẩn dụ cho thông điệp mà nhân vật muốn nói. Điều đặc biệt là phim của Trần Anh Hùng thường lồng ghép khéo léo âm nhạc Việt Nam, nhằm tạo nên bầu không khí bản địa đầy cảm xúc và trữ tình. Tất cả những yếu tố đó đã giúp cho tác phẩm của Trần Anh Hùng giành được nhiều giải thưởng danh giá trên thế giới.

Một châu Á gai góc
Đừng nghĩ rằng bên cạnh sự ý nhị, chú trọng tính hình tượng mà điện ảnh châu Á lại thiếu đi những mảng màu kịch tính. Điện ảnh Hàn Quốc đã đánh thức khán giả quốc tế bởi sự sống động và mức độ gai góc của nó. Họ dùng bản sắc châu Á để tạo nên những thứ cực đoan, chấn động và cả những góc cạnh mà Hollywood chưa từng làm được trước đó.
Chúng ta hãy đưa ống kính tới điện ảnh Hàn Quốc. Nếu khung cảnh một hồ nước phẳng lặng bao quanh bởi núi non trùng điệp đầy tính thiền định, có thể khiến người ta quên đi tạp niệm đời thường, thì trong một cái am giữa hồ nước đó, đạo diễn Kim Ki-duk vẫn có thể khuấy động những ý tưởng vô cùng dữ dội. Nhịp điệu kịch tính dưới bối cảnh phim đậm tư tưởng Phật giáo trong Xuân, hạ, thu, đông, rồi lại xuân (2003) cho thấy sự giao thoa giữa cái trầm mặc và cường điệu kiểu Hàn. Theo dòng chảy của điện ảnh Hàn Quốc, sự cường điệu đẩy mọi mâu thuẫn tới mức tối đa, người xem không cần phân định sợ hãi với khoái cảm, đúng hay sai.
Cái đẹp trong điện ảnh Hàn Quốc được sinh ra từ tâm cảm của một dân tộc trải qua những biến động lịch sử đặc biệt. Hàn Quốc đứng đâu trong dòng chảy tư bản toàn cầu? Người Hàn đã sống thế nào trước những chuyển biến xã hội và sự phân cực rõ ràng như hiện tại? Khi một đất nước trải qua quá trình hiện đại hoá quá nhanh, hệ quả tất yếu là sự tự phủ nhận và một xã hội bất định. Từ đó, những giá trị đạo đức bị thách thức. Mâu thuẫn giai cấp trở nên sâu sắc và được phóng đại trong điện ảnh, tựa như nhát dao của ông bố nghèo Ki-taek (Song Kang-ho thủ vai) đâm vào ông chủ Park trong Ký sinh trùng (2019) vì ông ta thoáng tỏ ra khinh miệt với mùi người nghèo.
Cô tịch, bình lặng hay quyết liệt thì điện ảnh Á Đông vẫn giữ nguyên tính gợi của nó. Ở mọi biến thể, thẩm mỹ trong điện ảnh Á Đông không nằm ngoài tư tưởng Tam giáo (Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo). Trong quá trình toàn cầu hóa, nét khác biệt tạo nên đặc trưng của điện ảnh phương Đông và phương Tây dường như không phai mờ. Bản sắc Á Đông vẫn luôn được viết tiếp bằng ngôn ngữ nhiệm màu của điện ảnh.
Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: