Bài & Ảnh TỬ YẾNG, LƯƠNG HOÀI, TRỌNG TÍNH

Từ thuở sơ khai, Việt Nam đã là một quốc gia nông nghiệp. Trong đó, làm nông và nuôi tằm là hai nghề được xem là “căn bản” trong đời sống sinh hoạt của người dân xưa.

Nghề nuôi tằm, dệt lụa phát triển trong lịch sử ở nhiều vùng thôn quê Việt Nam

Nuôi tằm se tơ

Trong xã hội xưa, làm nông và nuôi tằm là hai ngành nghề được thể chế hóa bằng các hoạt động như Tịch điền và tế Xã Tắc Tiên Nông. Điều này cũng đủ thấy sức ảnh hưởng của nông nghiệp đến đời sống của người dân và xã hội bấy giờ.

Thời ấy, việc may mặc được đề cao, nghề dệt cũng được phát triển phù hợp với nhu cầu sử dụng trong nước và xuất khẩu tại cảng biển. Các chất liệu như lụa, lĩnh (lãnh), sa cũng như phương pháp nhuộm màu vải bằng thực vật và thảo mộc được người Việt xưa sử dụng một cách nhuần nhuyễn để tạo nên những miếng vải cao cấp dùng trong đời sống, cũng như tặng phẩm. Dựa trên những ghi chép cận đại của nhà Nguyễn trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ và Đại Nam thực lục, thuế từ vải vóc được xem như một loại thuế chính ngạch. Các hội dệt lụa gồm tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, An Giang và Khánh Hòa, cùng với dệt sa/the ở Thanh Oai (Hà Nội) và vải sa nam (loại sa trơn) tại La Khê (Hà Nội).

Theo tờ Khoa Học (Số 114, 21/2/1936) giới thiệu nghề dệt cổ truyền tại miền Bắc nước ta như sau: “Vải ta là những thứ vải hẹp, khổ chỉ độ 0m40 tuy trông chẳng được bóng mịn bằng các thứ vải chúc bâu, cắt bá, song may mặc rất bền vì nó mộc mạc. Vào khoảng 30 năm về trước, dân ta cũng như hiện nay các dân mường mán còn biết tự trồng lấy bông, xe lấy sợi, ruộm (nhuộm) lấy vải, khâu lấy áo mà dùng sau chỉ vì không biết chuộng khoa học, không dầu (giàu) trí sáng kiến thành ra những nghề căn bản khi trước bị sự cạnh tranh của máy móc mà tiêu diệt dần, nghề vải là một nghề đang sắp bị khủng hoảng rồi đến tơ lụa, không khéo cũng đến nối gót”. Có thể thấy, giai đoạn nửa đầu thế kỷ 20, tuy các sản phẩm dệt thủ công được ưa chuộng ở Việt Nam nhưng vẫn cạnh tranh với các mặt hàng sản xuất công nghiệp.

Tác giả Léon Anglès, quan Bác vật Nông (cách gọi khi xưa ám chỉ người kỹ sư, chuyên gia nông nghiệp) đánh giá miền Nam bấy giờ có hai giống tằm chủ yếu là: “Giống tằm ở miệt sông Cửu Long có kén nhỏ dễ ươm, nhiều tơ mà mấy người làm nghề ươm ở miền Bắc ham mua lắm, thường ăn ít lá hơn giống tằm lớn kén ở Trung Lập (Gia Định)”. Đối với nghề dệt truyền thống ở Việt Nam, đa phần các hoạt động đều được làm thủ công và sử dụng phương pháp tự nhiên, từ việc trồng dâu, nuôi tằm, kéo sợi, dệt vải cho đến nhuộm thành phẩm. Tuy chất vải mộc mạc, song xét về tính thủ công thì thành phẩm lại khá công phu và tâm huyết.

Traditional silk spinning process

Bên cạnh việc se sợi, quy trình lên khung dệt cũng là một bước đòi hỏi sự chú tâm và chuyên môn cao để làm nên thành phẩm như ý. Với hình thức dệt truyền thống ở Việt Nam, các dạng vải lụa trơn là những mặt hàng phổ biến, còn mẫu vải có hoa văn đặc sắc lại được dùng để may y phục truyền thống của đồng bào dân tộc.

Nhuộm màu, dệt sắc

Trong công đoạn nhuộm vải, người làm nghề thường phải chú trọng đến độ tinh xảo của tấm vải nói riêng và tổng thể y phục nói chung. Bởi lẽ, sắc độ nhuộm cũng quyết định đến hiệu ứng về hoa văn, họa tiết trên nền vải được nhuộm. Thuở xưa, nghề nhuộm truyền thống ở Việt Nam đa phần dùng các chất liệu tự nhiên từ cây cối để tạo nên nhiều sắc độ. Chẳng hạn như nhuộm màu thâm thì dùng lá sòi, lá bàng và lá linh, khi chuộng màu chàm xám có thể dùng lá cây chàm và lúc cần sắc vàng thì dùng củ nghệ hay hoa cây hòe. Sự hài hòa giữa yếu tố màu sắc cũng liên quan mật thiết đến việc tạo hình cho y phục. Với những dạng y phục dành cho giới thượng lưu, vải thường được nhuộm với màu sắc tươi tắn, bắt mắt. Còn y phục bình dân thì màu sắc có phần tối hơn để phù hợp với sinh hoạt thường ngày.

Song, chất liệu cũng ảnh hưởng đến quy trình nhuộm vải, nếu như nhuộm lụa thì trước hết phải chuội cho lụa trắng (ngâm lụa trong nước nóng để làm sợi tơ chín) và giặt thật sạch lớp hồ bám trên lụa rồi mới nhuộm. Còn với những loại vải từ thực vật như bông hay lanh thì việc nhuộm có phần mất thời gian hơn. Bởi lẽ, sau khi nhuộm, còn phải đem vải căng cho thật phẳng khi phơi và mang đi hồ bằng bột nếp, khi lụa được hồ khô thì mới đem cuộn quanh trục gỗ và đập cho lụa mềm.

Việc ăn và mặc không chỉ là nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã hội bấy giờ mà còn thể hiện mức độ văn minh trong lối sinh hoạt. Vì vậy, “ăn trắng mặc trơn” được xem như một việc cao quý, quần áo phải được may bằng chất liệu trơn láng, thể hiện sự phong lưu, quyền quý.

Các dân tộc tại Việt Nam đều có kỹ nghệ dệt nhuộm khác nhau thông qua việc sử dụng phương pháp dệt, dùng họa tiết và màu sắc, từ đồng bào Tày (Tuyên Quang), Mông (Hà Giang), Thái (Nghệ An), Mạ (Lâm Đồng), Chăm (Ninh Thuận) cho đến Khmer (An Giang). Điều này không chỉ thể hiện sự đa dạng trong cách dệt nhuộm của người Việt, mà còn làm nổi bật bản sắc văn hóa dân tộc. Các chất liệu và kỹ thuật mang đậm chất truyền thống cũng phản ánh về sức sống lâu bền của một ngành nghề thủ công ở thời điểm hiện tại.

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: