Thu Hà
Không biết từ bao giờ, bún bò Huế đã là một phần ẩm thực được ưa chuộng khắp dải đất chữ S. Nhưng tại mỗi địa phương, món bún bò dẫu vẫn có gắn chữ “Huế” này lại có những điều chỉnh nho nhỏ cho phù hợp với khẩu vị người dân ở đó. Tuy vậy, nếu là đã “fan” của món ăn này, hẳn món bún bò trên quê hương cố đô, vẫn là thứ chẳng thể bỏ qua mỗi lần đến Huế.
Trăm năm sợi bún làng Vân Cù
Trước tiên, con bún hay sợi bún Huế được làm từ bột gạo pha với một ít bột lọc (bột mài từ củ khoai mì hay củ sắn ở miền Bắc), làm cho sợi bún mềm mà không bở, dai mà không cứng.
Ngày xưa, các nhà vườn xứ Huế vốn có khoảng cách từ nhà bếp đến nhà trên thường khá xa. Vì phải bưng tô bún đi một quãng đường dài như vậy nên người ta làm sợi bún Huế lớn và dày hơn, nhờ đó, bún không bị bở hay nát dẫu ngâm trong nước lèo bao lâu. Ngày nay, sợi bún Huế mảnh và nhỏ như sợi bún riêu của miền Nam.
Món sợi này cũng có tổ nghề, đó là bà Bún – người phụ nữ sống ở làng Vân Cù. Bà đã dành cả đời để mày mò làm ra những sợi bún ngon và truyền dạy cho dân làng. Đến nay, Vân Cù đã trở thành làng nghề làm bún dày dặn kinh nghiệm hơn 500 năm, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Sợi bún của làng ngon hơn hẳn những nơi khác, có lẽ vì chúng được làm từ dòng nước tươi mát của sông Bồ. Đây là dòng sông xinh đẹp và hùng tráng của xứ Huế, được miêu tả trong câu thơ của tác giả Trương Nguyễn Việt đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng “…Sông Bồ ơi bốn mùa nước xanh trong. Đất của thi nhân, đất của anh hùng…”
Hồi đó, bún bò tên là bún giò heo
Ít ai biết rằng, người Huế xưa gọi món này là bún giò heo hay bún chả cua chứ không gọi là bún bò. Vì từ thời Lý Trần cho đến giai đoạn kháng chiến chống Pháp năm 1948 đã lưu hành sắc lệnh cấm giết thịt trâu bò, vậy nên cỗ tiệc hay lễ Tết dân gian chỉ có thịt gà, vịt và thịt heo.
Không một con đường đông đúc nào của xứ Huế mà lại không có món ăn dân dã này. Quang gánh bún theo chân các o các mệ đi khắp nơi, phục vụ những tô bún nóng hổi cho bữa sáng của bà con. Bún, thịt, rau, mắm đầy đủ, nêm nếm vừa vặn, giá cả vừa túi tiền, ấy vậy là vừa lòng hợp dạ người cố đô lắm!
Người bán hàng xếp những lọn bún tươi óng mượt vào tô. Chan lên đấy thứ nước lèo ngọt thơm được hầm từ mắm ruốc, sả cây, thịt heo. Những viên chả được làm từ thịt heo xay mịn trộn với thịt cua, những lát thịt ba chỉ nửa nạc nửa mỡ, thêm mấy cục huyết vịt màu tím than ăn vào mềm tan trong miệng, chỉ có thế thôi nhưng đủ khiến bụng dạ người ăn reo sôi sùng sục.
Khi bún bò bắt đầu có thịt bò
Đến thế kỷ thứ 19, dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, triều đình Nguyễn bãi bỏ lệnh cấm giết bò. Thịt bò được chế biến thành các món bò beefsteak (bò bít tết), bò sốt vang phục vụ cho binh lính Pháp. Trong dân gian, thịt bò trở thành nguyên liệu chính làm nên hương vị của nhiều món ăn.
Theo nghệ nhân dân gian Mai Thị Trà, bún bò xuất phát từ món xôi xáo (xáo xôi) trong mâm cỗ cúng giỗ Chạp của người Huế. Xôi xáo tức là xôi trắng ăn cùng món thịt bò xáo ngập nước với rau củ và gia vị. Theo thời gian, khi sợi bún ra đời thì người ta thay thế xôi bằng bún.
Ngon đúng điệu bún bò xứ Huế
Nồi nước dùng xứ Huế mang dư vị ngọt thanh được hầm từ xương bò, xương heo được ninh suốt 4 tiếng. Ngọt thật thà vị umami của mắm ruốc Huế – chất mắm thơm lừng lên men từ loài tép nhỏ sống ở cửa biển. Vị mắm nồng đượm được chan hòa bằng mùi thơm tinh dầu của bó sả cay the nhè nhẹ. Nước lèo của nồi bún bò, màu sắc thì không thanh tao như món phở hay hủ tiếu, nhưng nhờ vậy mà kích thích vị giác vô cùng. Gam màu cam đỏ của dầu hạt điều hòa lẫn váng mỡ bò màu vàng chanh, húp một muỗng nước dùng, ta cảm nhận được độ ngọt tự nhiên và chút béo ngậy, để ngon hơn nữa thì người ta vắt chanh và chan nước mắm ớt cho đủ vị mặn ngọt chua cay.
Đĩa rau ghém tuy là món ăn kèm nhưng hấp dẫn ngang ngửa món chính. Rau gồm nhiều thứ rau dân dã nhưng “ngon đã đời” là bắp chuối, cải con, xà lách, rau thơm, giá đỗ, ngò rí.
Nhắc đến bún bò mà không nhắc đến tương ớt Huế thì quả là thiếu sót! Tương ớt Huế là gia vị dân dã, ăn kèm với nhiều món như cơm hến, bún thịt nướng, bún bò. Có hai loại tương ớt khác nhau. Một loại là tương ớt tươi, sử dụng ớt chìa vôi – trái to đỏ thẫm, đem đi luộc rồi bỏ hạt, băm nhuyễn rồi xào chung với dầu ăn, tỏi và gia vị. Còn loại thứ hai là tương ớt được làm từ bột ớt khô, cũng xào với dầu ăn và tỏi. Theo bí quyết của các o xưa, là trút cà chua băm nhuyễn vào chảo rồi kế đến là ớt bột, cách làm này giúp tương ớt không bị khét mà mất ngon.
Người Huế ăn cay rất giỏi, từ ớt bột, ớt trái, ớt ngâm cho đến tương ớt đều không thể thiếu trong bữa ăn hằng ngày. Vị cay không đơn thuần là khử tanh nguyên liệu hay tăng độ ngon cho món ăn, mà phản ánh gốc gác lịch sử và sự linh hoạt trong lối sống của bậc tiền nhân. Theo chân chúa Nguyễn Hoàng vào vùng đất Thuận Hóa, tổ tiên người Huế sống chung với người Chăm – vốn thích sử dụng ớt trong nấu nướng và ăn uống. Đồng thời, muốn chống chọi và thích nghi với môi trường sống “sơn lam chướng khí” của đất miền Trung thì việc ăn ớt là một cách đề kháng hữu hiệu.
Nếu có dịp ghé thăm Huế, ta hãy dành chút thời gian buổi sáng để nhâm nhi ly cà phê nóng, xì xụp tô bún bò ở một hàng quán hợp khẩu vị hay gánh bún yêu thích. Sửa soạn đũa muỗng, pha chén nước mắm cay, ngồi ngay ngắn trên ghế, chờ tô bún bò nóng hổi được mang đến bàn, gợi lên một cảm giác như ta đang được ăn bữa sáng ngon lành được mẹ nấu cho. Bởi hương vị đậm đà và từng lớp nguyên liệu trong lòng tô bún đều được các o chăm chút tỉ mỉ và nêm nếm bằng tình thương yêu.
Xem thêm bài viết liên quan:


