Bài: Anh Thư
Ảnh: Quang Ngọc
Trong bối cảnh ngành nông nghiệp và xuất khẩu nông sản có tăng trưởng tốt trong những năm gần đây, Heritage trò chuyện với ông Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường – Bộ Nông nghiệp và Môi trường, về phát triển nông nghiệp xanh và mục tiêu Net-Zero trong nông nghiệp.
Thưa ông, xưa nay, khi nhắc đến phát thải khí nhà kính (KNK), người ta thường nghĩ đến công nghiệp hay giao thông mà ít đề cập đến nông nghiệp. Vậy trên thực tế, phát thải từ lĩnh vực nông nghiệp chủ yếu từ nguồn nào và chiếm tỷ trọng thế nào trong tổng lượng phát thải KNK của Việt Nam?
Năng lượng (bao gồm cả sản xuất và sử dụng năng lượng) là lĩnh vực phát thải KNK lớn nhất, chiếm hơn 70% tổng lượng phát thải. Tại Việt Nam, theo kết quả kiểm kê quốc gia KNK của Việt Nam, năng lượng, nông nghiệp, công nghiệp và chất thải là các nguồn phát thải KNK chính. Tuy nhiên, tỷ trọng phát thải của nông nghiệp trong tổng phát thải KNK quốc gia có xu hướng giảm trong thời gian gần đây. Kết quả kiểm kê quốc gia KNK các năm 2010, 2013, 2016 cho thấy phát thải trong lĩnh vực nông nghiệp lần lượt là 88,3 triệu tấn CO2 tương đương (CO2tđ), chiếm 33.2%; 89,41 triệu tấn CO2tđ, chiếm 30.49%; 83,56 triệu tấn CO2tđ, chiếm 23.46%.

Trong nông nghiệp, 4 nguồn phát thải chính gồm: (i) Tiêu hóa thức ăn (phát thải CH4 từ quá trình tiêu hóa thức ăn của động vật nhai lại); (ii) Quản lý phân hữu cơ (phát thải CH4, N2O từ chất thải vật nuôi); (iii) Canh tác lúa (phát thải CH4) và (iv) Đốt phụ phẩm nông nghiệp (phát thải CH4 và N2O). Trong đó, phát thải từ canh tác lúa chiếm tỷ trọng cao nhất, năm 2010 phát thải từ canh tác lúa là 44,6 triệu tấn CO2tđ (chiếm 18,08% tổng phát thải KNK quốc gia), năm 2016 phát thải từ canh tác lúa là 49,69 triệu tấn CO2tđ (chiếm 15,69% tổng phát thải KNK quốc gia). Như vậy, dù lượng phát thải KNK từ canh tác lúa tăng nhưng tỷ trọng đã giảm trong giai đoạn 2010-2016.
Ông có thể cho biết hiện nay ngành nông nghiệp đang thực hiện những biện pháp giảm phát thải KNK nào?
Dù lượng phát thải KNK từ lĩnh vực nông nghiệp có xu hướng giảm về tỷ trọng so với các lĩnh vực khác nhưng để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng “0” đến năm 2050, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050 đã đặt ra mục tiêu bảo đảm tổng lượng phát thải KNK quốc gia đạt mức phát thải ròng bằng “0”. Trong đó, lĩnh vực nông nghiệp cần giảm 63,1%, lượng phát thải không vượt quá 56 triệu tấn CO2tđ; đối với lĩnh vực lâm nghiệp, sử dụng đất giảm 90% lượng phát thải, tăng 30% lượng hấp thụ các-bon, tổng lượng phát thải và hấp thụ đạt ít nhất -185 triệu tấn CO2tđ.
Để thực hiện các mục tiêu này, ngành Nông nghiệp đã xây dựng và triển khai Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030, kế hoạch giảm nhẹ phát thải KNK ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Nhiều giải pháp giảm phát thải trong nông nghiệp đã và đang được triển khai đồng bộ, phù hợp với từng vùng sinh thái và điều kiện cụ thể của từng địa phương.
Đối với trồng trọt, thực hiện các biện pháp như mở rộng việc áp dụng công nghệ tưới khô ướt xen kẽ (AWD) và canh tác lúa cải tiến (SRI), 3 giảm 3 tăng (3G3T), 1 phải 5 giảm (1P5G) và rút nước giữa vụ trong canh tác lúa nước; thực hiện chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả; đầu tư nâng cấp hạ tầng thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng; mở rộng việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác và quản lý cây trồng tổng hợp; áp dụng biện pháp mới trong sử dụng phân bón trong trồng trọt; thu gom, quản lý và tái sử dụng phụ phẩm cây trồng.

Còn đối với chăn nuôi, ngành sẽ tập trung cải thiện khẩu phần thức ăn cho động vật nhai lại (bò sữa, bò thịt, trâu, dê) đồng thời cải tiến công nghệ tái sử dụng chất thải chăn nuôi làm phân bón hữu cơ.
Giảm nhẹ phát thải KNK trong nông nghiệp, theo ông, đòi hỏi sự tham gia của ai và nhu cầu nguồn lực như thế nào?
Mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ đưa ra tại COP 26 vào năm 2021 tại Anh quốc và chính thức được đề cập trong Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050 vào tháng 7/2022. Đây là cam kết chính trị mang tầm quốc gia, vì vậy trách nhiệm thực hiện là của tất cả các cấp, các ngành và người dân trong đó Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, dẫn dắt; người dân và doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm và là chủ thể thực hiện cùng với sự tham gia hiệu quả của các tổ chức chính trị – xã hội. Ngoài ra, các sáng kiến, liên minh quốc tế, các tổ chức tài chính quốc tế có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ kỹ thuật, tài chính để đảm bảo thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Nhu cầu về nguồn lực để thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” rất lớn. Bên cạnh nhu cầu về phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, chuyển giao kỹ thuật, xây dựng hạ tầng… nguồn lực tài chính để thực hiện các biện pháp giảm nhẹ phát thải KNK vô cùng quan trọng. Báo cáo kỹ thuật xây dựng Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật năm 2022 đã ước tính nhu cầu tài chính để thực hiện NDC của Việt Nam đến năm 2030 là khoảng 21 tỷ USD (trong trường hợp đóng góp không điều kiện) và 86 tỷ USD (trong trường hợp đóng góp có điều kiện). Đối với lĩnh vực nông nghiệp, nhu cầu tài chính tăng thêm để thực hiện các biện pháp giảm nhẹ bằng nguồn lực trong nước là 2 tỷ USD và trong trường hợp đóng góp có điều kiện, nhu cầu tài chính tăng thành 16 tỷ USD.

Tốn nhiều nguồn lực như vậy, tại sao chúng ta vẫn phải thực hiện các biện pháp giảm phát thải KNK, phát triển các mô hình nông nghiệp phát thải thấp? Lợi ích từ quá trình này là gì?
Chuyển đổi xanh và phát triển nông nghiệp các-bon thấp không chỉ mang lại lợi ích về môi trường, giảm phát thải KNK mà còn đem lại giá trị kinh tế rõ rệt cho đất nước và người nông dân. Việc áp dụng các biện pháp giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là trong trồng trọt và chăn nuôi, giúp giảm chi phí đầu vào, hạn chế suy thoái đất và nguồn nước, nâng cao chất lượng nông sản, đáp ứng tiêu chí sản xuất xanh, bền vững.
Bên cạnh đó, chuyển đổi xanh giúp mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế đang yêu cầu ngày càng nghiêm ngặt về tiêu chuẩn môi trường và chất lượng sản phẩm. Như vậy, nông nghiệp xanh là con đường nâng cao giá trị gia tăng, sức cạnh tranh đối với nông sản của Việt Nam, tạo việc làm, bảo vệ hệ sinh thái, góp phần phát triển bền vững đất nước.
Ông có thể ví dụ cụ thể về những lợi ích đó qua Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long?
Đây là Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 27/11/2023 tại Quyết định số 1490/QĐ-TTg với mục tiêu đến năm 2030 sẽ xây dựng 1 triệu ha vùng chuyên canh lúa chất lượng cao phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Sau hơn một năm triển khai thí điểm cho 3 vụ sản xuất lúa liên tiếp tại 12 tỉnh vùng ĐBSCL, kết quả sơ bộ đến tháng 07/2025 cho thấy, tổng diện tích đăng ký triển khai Đề án là 312.000ha, tăng 112.000ha so với kế hoạch đề ra. Đề án hiện có 620 hợp tác xã tham gia, có khoảng 200 doanh nghiệp cung cấp đầu vào và bao tiêu đầu ra. Trong 232.000ha đã triển khai, có khoảng 68% diện tích được liên kết đầu vào và tiêu thụ đầu ra. Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục triển khai 11 mô hình ở các vùng sinh thái khác nhau, để đánh giá kỹ quy trình canh tác bền vững và đo đếm lượng giảm phát thải. Ngoài ra địa phương đã triển khai được 101 mô hình thí điểm, với tổng diện tích trên 4.518ha. Kết quả cho thấy năng suất tăng 5-10%, hiệu quả kinh tế tăng từ 3-5 triệu VNĐ/ha so với mô hình canh tác truyền thống trên cùng địa bàn. Ví dụ, ở tỉnh Đồng Tháp, năng suất lúa đã đạt 7,1 tấn/ha, tăng 4% và lợi nhuận thu được cao hơn từ 4,6-4,8 triệu VNĐ/ha. Lượng giảm phát thải đo trong mô hình này cũng đạt khoảng 3,13 tấn CO2 tương đương/ha/vụ; thu nhập tăng thêm từ việc bán rơm là 400.000VNĐ/ha.
Các mô hình thí điểm tại TP. Cần Thơ cho năng suất lúa cao hơn từ 0,3-0,7 tấn/ha so với diện tích canh tác theo phương pháp truyền thống. Tổng chi phí sản xuất ở các mô hình giảm trung bình 1,1 triệu VNĐ/ha. Lợi nhuận mô hình cao hơn so với diện tích cách tác truyền thống từ 1,3-6,5 triệu VNĐ/ha nhờ giảm 50% lượng giống, 30% lượng phân đạm, 2-3 lần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và 30-40% lượng nước tưới. Đặc biệt, theo kết quả đo đạc phát thải KNK của Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI), các mô hình triển khai tại thành phố Cần Thơ giảm từ 2-12 tấn CO2tđ/ha/năm.
Đề án đã có những tác động tích cực đến xuất khẩu gạo. Đầu năm 2025, Việt Nam đã xuất khẩu được 500 tấn gạo mang nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp” vào Nhật Bản, mở ra triển vọng mới cho ngành hàng lúa gạo Việt Nam.
Cảm ơn ông!
Xem thêm bài viết liên quan: