Bài: Nhà nghiên cứu mỹ thuật Nguyễn Hải Yến
Ảnh: Tư liệu và ảnh của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
Khách đến tham quan Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam rất thích thú khi đứng trước những tác phẩm của các họa sĩ Mỹ thuật Đông Dương ngày xưa đến thế hệ trẻ ngày nay trong chủ đề Lễ hội – Mùa xuân. Bộ sưu tập tác phẩm chủ đề này gợi mở ký ức xưa cũ, không gian lễ hội trôi theo năm tháng, nhưng tình người thì ở lại trong cảm xúc mỗi độ xuân về.

Tranh sơn mài truyền thống “Hội chùa” của Lê Quốc Lộc, “Hội Đình Chèm” của Nguyễn Xuân Bái đều sáng tác vào những năm 1930 gợi lên nét cổ kính trong ngôi chùa làng quen thuộc. Các cụ già, thiện nam, tín nữ thành kính dâng hoa, dâng hương. Cả một không gian lễ và hội đan cài trong khói hương hư ảo mênh mông tôn giáo.
Họa sĩ Nguyễn Tiến Chung với tranh sơn mài lộng lẫy “Hai thiếu nữ” khắc họa vẻ tất tả của hai cô nàng cho ta cảm giác không gian lễ hội đến rất gần rồi. Những vạt áo dài loang loáng trong nắng xuân lướt trên đồng lúa mới mềm mại, gợi cảm làm sao! Còn hai cô gái Mường trong tranh “Trẩy hội” của Nguyễn Văn Tỵ được thể hiện với gam màu lạnh xanh xám ngả tím. Hai cô Mường trong xiêm áo dân tộc, xúng xính vòng kiềng đi hội, mảng núi tím biếc phía xa, hình cánh cò trắng bay cao, một gốc mai nở e ấp gợi nhớ một kỷ niệm êm đềm.

Họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm với những tác phẩm là bản giao hưởng màu sắc trong chủ đề lễ hội. Ông bỏ nhiều công sức đi tìm vẻ đẹp từ điêu khắc đình làng thô kệch đến mỹ thuật uyển nhã sang trọng thời Lý, Trần, từ cái lực lưỡng điêu khắc thời Lê đến không gian quyền quý vương giả nghệ thuật Nguyễn. Tranh sơn mài của Nguyễn Tư Nghiêm được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam dành một vị trí trang trọng trưng bày, trong đó có tác phẩm đã là Bảo vật quốc gia (Tranh “Gióng”).
“Điệu múa cổ” là một đề tài ám ảnh Nguyễn Tư Nghiêm từ rất sớm, khi còn ở tuổi hoa niên, được chứng kiến cảnh hội làng tưng bừng trước ngõ, đầu thôn. Nhưng nó chỉ được xuất hiện với tư cách là một tác phẩm hoàn chỉnh vào năm 1972 khi ông được tiếp xúc với nghệ thuật điêu khắc gỗ dân gian đình làng trong bộ sưu tập cùng tên của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam công bố vào năm 1972. Những tranh sơn mài chủ đề “Điệu múa cổ” của Nguyễn Tư Nghiêm tập hợp về một nhịp điệu được rút ra từ nghệ thuật cung đình Huế hoặc bóng dáng các cô gái quê bước ra từ điêu khắc đình làng. Với những biến tấu vũ điệu động tác, đoàn người có trẻ, có già, đàn ông, đàn bà trong tiết tấu vấn vít nhịp nhàng chuyển động trong một vòng tròn luân vũ âm thầm. Những đôi chân như quyện vào nhau, hình dáng người múa nhạt nhòa, chơi vơi. Màu trắng phấn trên những nét mặt thiếp đi miên man phảng phất giấc mơ của con người về thế gian, tò mò, rụt rè, vừa chân thật, vừa siêu thực trong vũ điệu luân hồi.

Trên tranh cùng có một chữ “rượu”, nhưng lại là hai khung trời, hai tâm hồn khác biệt, tuy cùng diễn tả niềm vui trong ngày hội. Đó là “Men rượu”, tranh lập thể của họa sĩ Tạ Tỵ và “Rượu cần”, tranh sơn dầu của Kà Kha Sam. Một già, một trẻ nhưng cái say trong hương vị ngả nghiêng của rượu, hội hè ở thành thị hay ở một miền núi xa xôi, lòng người luôn chân thành, cởi mở trong vũ điệu êm đềm, cuồng phong, dữ dội của đêm hội không bao giờ kết thúc.
Những âm thanh rộn rã vang vọng cả núi rừng trong ngày hội của “Tiếng cồng” (Kim Châm, lụa, 1978) hay “Tiếng cồng Tây Nguyên” (Xu Man, Sơn mài, 1980), “Ngày hội tung còn” (Chu Thị Thánh, Bột màu, 1979), những họa sĩ dân tộc hiện đại đã thắp lên những ánh lửa hội làng đằm thắm yêu thương, gần gũi.
Họ đã làm chủ núi rừng, cuộc đời, làm chủ cả hương hoa đất trời để tạo một nền nghệ thuật vì con người, trong sáng tạo và tiếp biến văn hóa nhân loại nơi trần thế.
Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: