Bài: GS. TRẦN THỌ ĐẠT
Ảnh: MINH QUÂN, QUANG MINH, SHUTTERSTOCK

Kinh tế Việt Nam đang dần cán đích năm 2022. Mặc dù đối diện với ba “cơn gió ngược” là:

(i) bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm tăng trưởng và lạm phát dâng cao;
(ii) xung đột Nga – Ukraina gây tác động đến khủng hoảng an ninh năng lượng, lương thực và đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu;
(iii) sự giảm tốc trong tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang được xem là một điểm sáng trong khu vực và trên thế giới khi đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong hơn 10 năm qua. Tuy nhiên, nhìn vào thực chất, nền kinh tế đang đối diện nhiều thách thức cả bên trong và bên ngoài. Dự báo năm 2023 sẽ có rất nhiều khó khăn và trở ngại, đòi hỏi những hành động quyết liệt cả từ Chính phủ và doanh nghiệp.

Kinh tế Việt Nam là điểm sáng trong bức tranh kinh tế thế giới năm 2022

Việt Nam – Điểm sáng kinh tế nổi bật năm 2022

Tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022 được xem là điểm sáng trong “bức tranh màu xám” của kinh tế thế giới. Mặc dù tái mở cửa có phần hơi chậm, nhưng hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế
– xã hội đã bắt nhịp phục hồi nhanh và bật tăng mạnh mẽ. GDP dự kiến tăng trưởng gần 8% – cao nhất Đông Nam Á, đồng thời cũng là tốc độ tăng trưởng cao nhất của Việt Nam trong hơn 10 năm qua, lạm phát dưới 4%. Hai chỉ số kinh tế quan trọng này đặc biệt chói sáng trong bối cảnh hầu hết các nền kinh tế khác trên thế giới đều phải liên tục điều chỉnh lùi tốc độ tăng trưởng, “oằn mình” đương đầu với lạm phát đang ở mức cao nhất trong nhiều thập kỷ.
Về tổng thể, các khu vực kinh tế thực (khu vực sản xuất, dịch vụ) trong năm 2022 diễn biến khá thuận lợi khi đà tăng trưởng của các ngành sản xuất khởi sắc, đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ đã phục hồi mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng đang dẫn đầu. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, xuất khẩu hàng hóa gia tăng trở lại, nền kinh tế vẫn đang tiếp tục được hỗ trợ bởi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có thể nói kinh tế Việt Nam đã “lội ngược dòng” thành công trong bối cảnh xu hướng suy giảm của kinh tế khu vực và thế giới.

Phía trước nhiều thách thức

Nhìn sâu hơn vào bức tranh mầu hồng năm nay, khu vực kinh tế thực đang đối diện với rủi ro và thách thức gia tăng. Trước hết, bản thân con số tăng trưởng “cao nhất” Đông Nam Á dự kiến đạt được năm nay là so với nền tăng trưởng khá thấp 2,6% năm ngoái. Đã xuất hiện những dấu hiệu cho thấy đà tăng trưởng đang bị chậm lại ngay từ quý 4 năm 2022: chỉ số sản xuất của ngành chế biến-chế tạo, vốn được coi là đầu tầu tăng trưởng, chỉ tăng 4.4% trong tháng 11/2022 so với cùng kỳ; tăng trưởng của nhiều ngành như xây dựng, sản xuất điện/nước còn cách xa con số của giai đoạn 2017-2019; xuất khẩu đảo chiều, tăng trưởng -8,4%. Khả năng xuất khẩu tăng trưởng dương trong tháng 12 là khá thấp, đặc biệt là so với mức nền cao của năm ngoái.

Các doanh nghiệp cần nỗ lực gia tăng năng lực cạnh tranh, biến nguy thành cơ

Trong khi đó, khu vực tài chính – tiền tệ – ngân hàng đã rơi vào một giai đoạn cam go do niềm tin bị suy giảm nặng nề. Thị trường chứng khoán lao dốc thuộc loại mạnh nhất thế giới, gần như miễn nhiễm với các chỉ số cơ bản về lạm phát và tăng trưởng. Thị trường trái phiếu tê liệt. Chưa bao giờ nền kinh tế thực và khu vực tài chính có mối tương quan rất yếu như hiện nay. Một cảnh báo rất đáng lưu tâm là các đứt gãy của hệ thống tài chính sẽ truyền tải, thẩm thấu, lây nhiễm sang các hoạt động của khu vực sản xuất.

Năm 2023 được dự báo là năm khó khăn của kinh tế toàn cầu với nhiều biến động nhanh, phức tạp, khó lường và vượt qua khả năng dự báo của các nước và các tổ chức quốc tế. Việt Nam có kim ngạch xuất
– nhập khẩu gấp hai lần GDP; khu vực FDI đang đóng góp tới hơn 20%GDP, chiếm 72% tổng giá trị xuất khẩu và khoảng 50% sản lượng công nghiệp. Một nền kinh tế hội nhập sâu rộng như vậy sẽ chịu tác động rất nhanh và trực tiếp của môi trường quốc tế với những biến động “không có tiền lệ”, “không dự báo được”.
Từ những khó khăn nội tại của nền kinh tế liên quan đến bất ổn của thị trường bất động sản, thị trường vốn, khả năng thanh khoản của các tổ chức tín dụng, khả năng chống chịu của nền kinh tế vừa qua và bối cảnh dự đoán không thuận của kinh tế thế giới năm 2023, các chính sách điều hành kinh tế trong thời gian tới cần rút ra được những bài học và hệ lụy sâu sắc từ cuộc khùng hoảng kinh tế giai đoạn 2007- 2009 trước đây.

Doanh nghiệp ứng phó

Các doanh nghiệp Việt đang nỗ lực rất lớn và kiên trì bám trụ, vượt khó. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng mặc dù các con số vĩ mô vẫn đang tích cực, thực chất hoạt động của các doanh nghiệp đang trong tình trạng rất khó khăn. Trong 11 tháng đầu năm, số doanh nghiệp mới thành lập tăng 33% so với năm 2021, nhưng cứ 10 doanh nghiệp được thành lập thì có 7 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Trong nửa năm qua, khi các kênh dẫn vốn cho doanh nghiệp bị đình trệ, thị trường tài chính tắc nghẽn ở hầu hết các kênh đến mức bị “khô máu”. Ngay cả khi được “tiếp máu” nhưng với chi phí cao quá sức chịu đựng, hoạt động sản xuất, kinh doanh sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đã xuất hiện tình trạng đơn hàng bị cắt, sản lượng sụt giảm, doanh nghiệp ngừng hoạt động. Tình trạng cắt giảm lao động, giảm giờ làm, nghỉ việc luân phiên, sa thải lao động đang trở lại.
Trong bối cảnh đó, yếu kém trong nội bộ của doanh nghiệp sẽ bộc lộ và họ sẽ phải rút khỏi thị trường khi không cầm cự được. Nhìn ở góc độ tích cực, khó khăn là yếu tố tạo nên đổi mới, cấu trúc doanh nghiệp sẽ biến đổi để gia tăng năng lực cạnh tranh. Hơn bao giờ hết, kỹ năng quản trị và phòng ngừa rủi ro cần được doanh nghiệp đặt lên hàng đầu; nâng cao năng lực nội tại cần được tăng cường để ứng phó với sự thay đổi; tìm kiếm thị trường ngách nhằm hạn chế tối đa những rủi ro phát sinh. Doanh nghiệp cần tận dụng cơ hội và xu thế phát triển hiện nay để đẩy mạnh chuyển đổi số, thay đổi hệ thống quản trị, áp dụng các chuẩn mực và thông lệ tốt, hỗ trợ người lao động để duy trì nguồn nhân lực.

Chính phủ hành động

Người đứng đầu Chính phủ đã có thông điệp mạnh mẽ về kiên định ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế, triển khai nhanh và mạnh hơn các gói phục hồi kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết vấn đề xã hội thông qua việc khẩn trương phân bố lại nguồn lực các chương trình quốc gia và chương trình an sinh trong gói phục hồi để hỗ trợ, kịp thời, hiệu quả hơn cho người lao động mất việc làm. Cần rà soát thật kỹ và tìm ra các nguyên nhân cụ thể làm chậm giải ngân vốn đầu tư công đã tồn tại nhiều năm. Khi đưa ra các giải pháp, cần bám sát những khó khăn của cộng đồng doanh nghiệp để kịp thời giải quyết các vướng mắc, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ứng phó với khó khăn, thích ứng và chuyển hướng.

Chính phủ đã cam kết tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, đặc biệt là sự minh bạch và công bằng, không hình sự hoá các quan hệ kinh tế – dân sự, tránh điều hành chính sách giật cục, nâng cao tính tiên lượng được của chính sách, ổn định thị trường ngoại hối, điều hành lãi suất, tỉ giá phù hợp với tình hình và điều kiện thực tiễn, Bảo đảm cân bằng, hợp lý giữa tỉ giá và lãi suất, giữa kiểm soát lạm phát với tăng trưởng kinh tế, phù hợp với tình hình thực tiễn, tháo gỡ những nút thắt của dòng vốn trong nền kinh tế, hóa giải tâm lý e ngại, dè dặt, đặc biệt đối với cán bộ, viên chức, trong các dự án đầu tư công.

Tăng trưởng kinh tế năm 2022 rất ấn tượng nhưng đà phục hồi đã giảm dần từ quý 4 và các động lực tăng trưởng đang gặp thách thức lớn trong năm 2023. Không thể quá lạc quan với thành tựu mà cần nhìn trực diện, thẳng thắn vào nhận hiện tại và tương lai để hoạch định những chính sách phù hợp và linh hoạt, đồng thời kiên định, nhất quán với tầm nhìn dài hạn.

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: