Phan Cẩm Thượng
Biểu tượng con rồng huyền thoại có tính phổ biến trên thế giới. Ở phương Tây con rồng không tượng trưng cho vương quyền, mà nghiêng về các thế lực ác. Còn ở phương Đông, rồng tượng trưng cho nhà vua, hoàng đế, điều hòa thời tiết, sự sinh sôi nảy nở của xã hội nông nghiệp. Dù là biểu tượng cho triết lý, thế lực nào thì nguồn gốc sinh ra loài rồng trên thế giới là khá tương đồng.

Con người khi bước ra khỏi hang động có nỗi sợ đến từ 3 thế lực: con sư tử, hoặc hổ trên mặt đất, con rắn hoặc thủy quái, bò sát hung dữ dưới nước, con đại bàng lớn và các loài chim ăn thịt hung dữ trên trời. Đó là những đối thủ đáng gờm, nhanh nhẹn, mạnh mẽ, nanh vuốt sắc nhọn, bất cứ lúc nào cũng có thể ăn thịt con người. Dần dần, người ta tổng hợp cả 3 loài đó vào một hình tượng chung, gọi là con rồng. Con rồng có đầu sư tử, mình rắn, vẩy cá, sừng hươu, rồng phương Tây thì có cánh, rồng phương Đông không có cánh, nhưng bay lượn trong mây, phun nước, làm mưa. Con ngựa kết hợp với con sư tử và cá thành con long mã, hay con kỳ lân, mình ngựa, nhưng đầu sư tử, thân có vẩy. Các khái niệm có lẽ cũng xuất phát từ âm đọc đầu tiên: dragon (Anh), lủng/ long (Trung Quốc), rồng (Việt)… tương tự có một nguồn âm tiết.
Người ta cho rằng hình tượng chạm khắc rồng sớm nhất trong khảo cổ học thời kỳ đồ đá mới ở Trung Quốc, khoảng 5.000 năm TCN và văn bản nhắc đến rồng sớm nhất trong trước tác của Khổng Tử khoảng 2.000 năm TCN. Rồng ở Việt Nam xuất hiện trên các di tích thời Lý (năm 1010 – 1225), và phổ biến trong suốt một ngàn năm phong kiến tự chủ. Nhưng dấu tích liên quan đến rồng cũng thấy trên chạm khắc đồ đồng Đông Sơn, cách đây 2.500 năm. Con rồng phương Tây xuất hiện nhiều vào thời Trung cổ, từ khoảng thế kỷ 7 – 14. Trong Ấn Độ giáo, Makara – thủy quái, cũng được coi là một loại rồng, nó rất phổ biến trong nghệ thuật Champa.

Theo tư liệu nghiên cứu của Robert Beer, trong cuốn Hand book of the Tibetan Buddhist symbol (Sổ tay Biểu tượng Phật giáo Tây Tạng), thì rồng Trung Quốc được cho là có 3 loài chính và 9 loài phụ. 3 loài chính là: rồng sấm sét có phổi hoặc có sừng (cường long/ trường giác lôi long/ rồng sấm sét có sừng), ly hay rồng biển không sừng (hải long không sừng/long mã), giao long (Ch.chiao) có vảy, sống trong đầm hồ và hang động. 9 loài phụ là: thiên long, thần long, dực long (rồng có cánh), bàn long (rồng cuộn), đới giác long (rồng có sừng), ủng chủy long (rồng có mõm), hoàng long (rồng vàng), thủy long (rồng nước), hộ pháp long (rồng bảo vệ kho báu). Tên của 12 loài này theo tiếng Hán, do người Trung Quốc khảo cứu, và cũng được người Việt Nam biết đến.
Cũng theo khảo cứu của Robert Beer, con rồng điển hình được cho là có 3 phần và 9 hình tướng. 3 phần là đầu đến chân trước, chân trước đến thắt lưng và thắt lưng đến đuôi. 9 hình tướng (đặc điểm) là: đầu giống lạc đà, sừng như sừng hươu, mắt như quỷ, thỏ hoặc tôm; cổ như rắn, vảy như cá; cái bụng giống như con ếch hay con sò khổng lồ; tai giống như con bò; chân trước và bàn chân như hổ; móng vuốt như đại bàng. Dọc theo lưng của nó là dãy 81 vảy giống như ngọn lửa và các tấm lưng nhọn mọc ra từ hàm, cằm, đầu gối và đuôi. Bộ râu giống cá chép kéo dài từ môi trên rồng, bờm cuộn tròn và bồng bềnh giống như bờm ngựa. Cặp mắt rồng hoang dại nhìn chằm chằm, lông mày nhướng lên. Răng của nó sắc nhọn, lưỡi dài và xoắn. Từ 2 chân trước phát ra ngọn lửa tia chớp khi rồng uốn khúc trong đám mây cuồn cuộn, cả 4 chân ôm chặt những viên ngọc quý.

Là một xã hội nông nghiệp, người Việt Nam xưa quan niệm con rồng là thế lực trên trời đối lập với thế lực dưới đất là con hổ. Cả rồng và hổ đều được thờ cúng, trong đó rồng là thần mưa, hô phong hoán vũ, giúp ích cho đồng ruộng mùa màng, rồng là biểu tượng của vua, hoàng đế và các vị thần. Trong các chạm khắc thời Lý Trần, con rồng còn là biểu tượng của sự thăng hoa, siêu thoát Phật giáo, từ thời Lê sơ trở đi con rồng dường như trở thành độc quyền của triều đình phong kiến. Chạm khắc bia Vĩnh Lăng của Lê Lợi với con rồng nằm giữa hình tròn và hình vuông, tượng trưng cho nhà vua là thiên tử nằm giữa trời tròn đất vuông. Rồng của vua có 5 móng, tuyệt đối không được phép thay đổi và bắt chước, còn từ đó, y phục các quan lại tùy theo chức tước có thể thêu rồng nhưng từ 4 móng trở xuống. Chạm khắc trong đình đền chùa địa phương cũng vậy, không được phép chạm rồng 5 móng. Đôi rồng chầu – lưỡng long triều nhật, hay nguyệt là biểu tượng của rồng phối âm dương mà tạo ra sinh tồn.
Theo khoa chiêm tinh cổ xưa, thì rồng thăng thiên vào điểm xuân phân, tạo ra mưa gió, sấm chớp và thu mình xuống vực sâu vào điểm thu phân, để rồi mùa xuân năm sau lại xuất hiện. Sinh khí linh thiêng của những ngày đầu năm mới cộng hưởng cùng với những huyền sử về con rồng khiến cho hình tượng này luôn có vị trí đặc biệt trong nền văn hóa và các tín ngưỡng Á Đông.
Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: