GS.TS Trịnh Sinh

Vị anh hùng dân tộc mở đầu cho một trong những trang sử rực rỡ nhất của Việt Nam là Đinh Tiên Hoàng. Sách Đại Việt sử ký toàn thư đã ca ngợi ông là “Vua tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời”. Công lớn nhất của ông là thống nhất đất nước về một mối trước hiểm họa loạn 12 sứ quân tranh giành, phân chia nước Việt ra thành nhiều mảnh.

Đền vua Đinh

Từ một thủ lĩnh của đám trẻ chăn trâu dùng cờ lau tập trận, ông đã xây dựng quê hương mình trở thành kinh đô Hoa Lư nổi tiếng của nước Đại Cồ Việt vào năm 968 (hiện nay nằm trên địa bàn của 2 huyện Hoa Lư, Gia Viễn và thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình). Có lẽ khi xây những vòng thành Hoa Lư đầu tiên, ông cũng không nghĩ được đến một ngày, nơi đây là một trong những “Di tích Quốc gia đặc biệt” quan trọng trong lịch sử Việt Nam, nơi đã sản sinh ra 3 triều đại oanh liệt: nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý. Sự vĩ đại của Đinh Tiên Hoàng là xây dựng một nhà nước phong kiến tập quyền, tự tôn làm hoàng đế chứ không chịu chỉ xưng làm vương của một nước chư hầu, lệ thuộc vào quốc gia khác. Ông là vị hoàng đế đầu tiên sau “đêm dài ngàn năm Bắc thuộc”. Tiếp nối ông là Lê Hoàn – Đại Hành hoàng đế, người có công củng cố nền độc lập dân tộc, “phá Tống, bình Chiêm”. Triều Lý cũng đã khởi nghiệp ở đất Hoa Lư với vị vua đầu triều là Lý Thái Tổ, ban đầu đóng đô ở Hoa Lư rồi mới dời ra đất Thăng Long năm 1010.

Trong quãng thời gian 42 năm là kinh đô của 3 triều đại, Hoa Lư đã để lại nhiều dấu ấn vàng son. Trước tiên, đó là dấu tích một tòa thành cổ, ở vị trí hiểm trở với chức năng là quân thành, phòng thủ. Thành Hoa Lư nằm ở trung tâm đất nước bấy giờ: giữa ngã 3 khu vực Tây Bắc, châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Bộ, khi tiến công có thể ra bắc, vào nam đều tiện đường bộ, đường thủy. Khi phòng thủ có thể ngăn quân địch bằng những thành lũy núi cao với con hào tự nhiên là sông Hoàng Long và nhánh của sông này là Sào Khê. Khi rút lui cũng có đường lên vùng núi Tây Bắc. Thành Hoa Lư là một sáng tạo của người Việt khi dùng núi cao làm tường thành tự nhiên bao bọc thung lũng, nối các núi bằng các đoạn thành xây gạch và đắp đất tạo nên ngôi thành khép kín. Đến nay, vết tích của 10 đoạn thành đất vẫn còn. Các nhà khảo cổ đã tìm được kết cấu của các đoạn thành ước tính cao khoảng 8 – 10m, phần móng thành có nhiều cọc gỗ đóng sâu xuống lòng đất, phía trong thành xây bằng gạch dày 45cm, chân tường thành kè đá tảng, gạch bó. Một số gạch được sản xuất từ lò chuyên dụng, mặt ngoài có chữ “Đại Việt quốc quân thành chuyên” (gạch xây Quân thành của nước Đại Việt).

Lối vào hậu cung đền vua Lê

Vết tích của các đoạn thành hiện nay vẫn còn, phân chia ra các khu vực: Thành Đông (còn gọi là thành ngoài) với 140ha thuộc địa phận xã Trường Yên, gồm 5 đoạn tường thành và là cung điện chính, nơi có đền vua Đinh, đền vua Lê. Thành Tây (còn gọi là thành trong) thuộc thôn Chi Phong có diện tích tương tự Thành Đông cũng có 5 đoạn tường thành như vậy. Đây là khu triều chính, nơi ở của quan lại và quân lính. Thành Nam là khu vực nhiều núi, có sông chảy qua, nhiều khe, ngòi chằng chịt, nhiều hang động, tiện việc phòng thủ. Hiện nay, khu vực Thành Nam trở thành địa điểm du lịch trong quần thể danh thắng Tràng An được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên thế giới.

Cố đô Hoa Lư còn có nhiều chùa được xây dựng vào thời Đinh, Tiền Lê. Điển hình là ngôi chùa Nhất Trụ có cột kinh Lăng Nghiêm bằng đá hình bát giác cao 4,16m, được làm vào năm 995 thời Lê Đại Hành. Trên 8 mặt bia được khắc chữ Hán với khoảng 2.500 chữ ghi lại nội dung kinh Phật. Ngoài cột kinh Lăng Nghiêm, các nhà khảo cổ còn tìm được trong lòng đất Hoa Lư 40 cột kinh bằng đá cùng loại nhưng kích thước nhỏ hơn.

Những dấu tích của cố đô Hoa Lư còn được phát hiện qua các cuộc khai quật khảo cổ học từ năm 1963. Một phần cung điện thời Lê Đại Hành được tìm thấy nằm sâu dưới mặt đất 3m có các viên gạch lát nền kích thước lớn 48cm x 78cm, trang trí hoa sen, các loại gạch xây thành, đầu ngói ống, tượng vịt, các đồ ngự dụng… Mới đây, năm 2022, dấu tích khá rộng của nền móng các cung điện ở khu vực đền vua Đinh, vua Lê đã được tìm thấy, qua đó xác định được quy mô của Cấm thành và Hoàng thành Hoa Lư.

Dần dần, những đoạn thư tịch nói về những cải cách để phát triển đất nước dưới các triều vua Đinh và vua Lê đã được minh chứng qua các di vật quí đương thời như: phát hiện được các loại tiền đồng có chữ Thái Bình Hưng Bảo (thời Đinh), Thiên Phúc Trấn Bảo (thời Tiền Lê) chứng minh đã có một nền tài chính quốc gia, thương mại phát triển. Vào thời này, đất nước thanh bình, nhiều cung điện được xây dựng và từng bước được giới khảo cổ học chứng minh “dựng điện Bách Bảo Thiên Tuế làm nơi coi chầu, phía đông là điện Phong Lưu, phía tây là điện Tử Hoa, bên tả là điện Bồng Lai, bên hữu là điện Cực Lạc. Tiếp đó là lầu Đại Vân, điện Trường Xuân làm nơi vua nghỉ. Bên cạnh lại dựng điện Long Bộc, mái lợp ngói bạc” ( trích Đại Việt sử ký toàn thư).

Một di tích quan trọng nữa ở cố đô Hoa Lư là lăng mộ của vua Đinh và vua Lê được đặt ở núi Mã Yên. Hơn nghìn năm trôi qua, hậu thế luôn nhớ đến công lao của các ngài mà tưởng nhớ hương khói quanh năm. Dấu ấn vàng son của các ngài dựng nền nhà nước quân chủ tập quyền còn mãi không những qua truyền thuyết mà còn ở những di tích, di vật thời này đang mỗi ngày được khám phá nhiều thêm.

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: