Bài: Tuấn Hùng
Thay vì tập trung đón khách trước mùa cao điểm, nhiều chủ khách sạn ở các thành phố du lịch lớn lại tập trung … bán khách sạn họ đang kinh doanh.
“Tôi không nắm chính xác số liệu nhưng muốn biết có bao nhiêu khách sạn ở Nha Trang đang được rao bán thì rất dễ. Chỉ cần ra khu phố Tây mà xem thì thấy ngay; thấy đóng cửa, tắt đèn tối thui là biết”, ông Trần Đình Quý, Chủ tịch Hội Môi giới Khánh Hòa, nói khi được hỏi về số khách sạn đang được rao bán ở Nha Trang.

“Khu phố Tây” được ông Quý nhắc đến nằm ven đường Trần Phú, Hùng Vương, Biệt Thự, Trần Quang Khải, Nguyễn Thiện Thuật của Nha Trang. Nơi đây không còn cảnh những dòng người như nước của thời trước dịch Covid-19 mà thay vào đó là những cánh cửa đóng chặt có treo bảng rao bán. Tại những tuyến đường “vàng” ven biển tại quận Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn hay trung tâm thành phố Đà Nẵng, việc rao bán khách sạn cũng “sôi nổi” không kém.
Vì sao bị bán?
Khách sạn từng là những “mỏ vàng”, nhưng điều này chỉ đúng với “thời cực thịnh 2017 – 2019” của du lịch Việt Nam. Trong thời gian này, trung bình mỗi năm có khoảng 10.000 phòng khách sạn trung, cao cấp mới đi vào hoạt động, theo Savills Vietnam. Người ta kỳ vọng về nguồn khách “khủng” sẽ đến từ năm 2020.
Tuy nhiên, Covid-19 đã đánh sập mọi kỳ vọng. Lượng phòng tăng quá nhanh trong khi lượng khách giảm tới 80% đã trở thành gánh nặng cho nhiều chủ đầu tư cơ sở lưu trú.
Năm 2022, Việt Nam chỉ đón 3,6 triệu du khách quốc tế, đạt khoảng 70% mục tiêu và chỉ bằng 20% lượng khách quốc tế của năm 2019. Các khách sạn ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh phục hồi tốt hơn nhờ nguồn khách công vụ, còn khách sạn của các tỉnh trọng điểm du lịch thì “chết hẳn”. Tại Nha Trang và Đà Nẵng, lợi nhuận kinh doanh lưu trú đang thấp hơn Bali (Indonesia) và Phuket (Thái Lan) từ 40% đến 60%.
Khách nội địa phục hồi nhanh nhưng sức mua của họ không thể so với khách quốc tế. Năm 2019, tổng thu từ khách quốc tế là 421.000 tỷ đồng, nhiều hơn 87.000 tỷ đồng so với tổng thu từ khách nội, dù lượng khách quốc tế chỉ bằng hơn 20% khách nội địa.
Khách nội địa tập trung chủ yếu vào dịp Tết và ba tháng hè. Các thành phố du lịch cần khách quốc tế để lấp đầy các khách sạn trên địa bàn quanh năm. Nhiều chuyên gia cho rằng phải đến sau năm 2024, lượng khách quốc tế mới quay trở lại bình thường như trước dịch. Với lộ trình này, nhiều khách sạn còn phải chịu một thời gian dài ế ẩm.
Không có khách, không có doanh thu nhưng các chủ khách sạn vẫn đang phải trả lãi ngân hàng mà nhiều người cho biết là “ở mức cao tới 14%/năm”. Áp lực lãi vay gia tăng cùng với việc phải chi trả các khoản lương cho nhân viên và chi phí duy trì vận hành khiến bán khách sạn trở thành phương án duy nhất để cứu lấy một phần tài sản.
Ông Lê Văn Quý, quản lý khách sạn Sam Grand Đà Nẵng, nói chi phí vận hành một khách sạn 100 phòng chiếm 50-60% doanh thu, nghĩa là công suất phòng phải luôn ổn định ở mức 55% mới hòa vốn. Hiện nhiều khách sạn đã giảm giá phòng tới 30-40% so với thời trước dịch nhưng lượng khách đến vẫn không tăng.
“Từ đầu năm đến giờ, chúng tôi vẫn lỗ. Anh em trong ngành cũng chỉ chờ đợt hè để có thêm khách nhưng nhìn chung tiếp tục lỗ”, ông Quý buồn bã nói và cho biết nhiều người quen đang kinh doanh khách sạn ở Đà Nẵng đã sẵn sàng từ bỏ khách sạn của mình và chỉ chờ có người mua.
Bán cũng không dễ
Ông Võ Văn Hà, môi giới bất động sản ở Nha Trang, cho biết tình trạng rao bán khách sạn rầm rộ ở Nha Trang diễn ra từ sau dịch. 80% khách hàng của ông Hà rao bán khách sạn vì không có khả năng quyết toán các khoản vay ngân hàng đúng hạn. Đây không chỉ là thực tế của Nha Trang mà còn là của các trung tâm du lịch khác như Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh hay Hà Nội.
Theo ông Hoàng Linh, chủ một khách sạn tại trung tâm Đà Nẵng, các khách sạn vừa và nhỏ tại đây được chào bán với mức giá khoảng vài chục tỷ VNĐ, tùy vị trí. Trong khi đó, phân khúc 4-5 sao được bán với giá khoảng 400 tỷ VNĐ lên đến cả nghìn tỷ VNĐ. Hoạt động mua-bán cũng chỉ sôi nổi từ phía bán, ông Linh cho biết.
“Từ cuối năm 2022, nhu cầu chuyển nhượng dự án nghỉ dưỡng gia tăng so với trước đây. Chủ sở hữu của một số tài sản hấp dẫn, vốn trước đây không có nhu cầu tìm kiếm nhà đầu tư, cũng đang cởi mở trao đổi hơn”, ông Mauro Gasparotti, Giám đốc Savills Hotels APAC, nói và cho biết thêm rằng giá chào bán và giá kỳ vọng của người mua đang có độ vênh lớn nên dù nhiều quỹ quan tâm, họ vẫn đang cân nhắc.
Số thương vụ thành công không lớn. Thanh Huyền, một môi giới bất động sản ở Nha Trang, cho biết hiện không phải thời điểm tốt để kinh doanh khách sạn nên có ít khách mua. Từ đầu năm đến nay, cô chưa môi giới thành công một thương vụ mua bán nào, chủ yếu là chỉ là thuê lại khách sạn.
Một nỗi lo chung
Thực tế, việc nhiều khách sạn bị rao bán, đóng cửa không ảnh hưởng quá lớn đến ngành du lịch nếu lượng khách ồ ạt trở lại.
Ông Phạm Văn Bảy, Phó Giám đốc Vietravel chi nhánh Hà Nội, cho rằng nếu lượng khách ổn định, sẽ có người bỏ tiền mua lại những khách sạn đang được rao bán. Hoặc, chính các chủ khách sạn cũng sẽ tự mở trở lại. Do đó, nỗi lo “quá tải lưu trú khi khách du lịch trở lại như trước dịch” là không cần thiết.
Tuy nhiên, du lịch vốn không phải là “sân chơi riêng” một ngành. Một sản phẩm du lịch được tạo nên từ chuỗi liên kết của nhiều loại hình dịch vụ, nên tất cả phải vận hành trơn tru thì mới có thể có được sản phẩm tốt nhất. Khi một mắt xích trong chuỗi bị yếu, các mắt xích còn lại khó có thể khỏe.
“Khi đối tác của mình gặp khó, bản thân mình cũng không khỏe nổi. Họ sẽ đưa ra các chính sách thanh khoản khẩn hơn để thu hồi vốn nhanh”, ông Bảy nói.
Mặt khác, ông Bảy cũng nhận xét rằng các ưu đãi dành cho doanh nghiệp cần được đưa vào “đúng thời điểm”. Ví dụ, ưu đãi thuế 8% được đưa ra vào lúc doanh nghiệp không có khả năng kinh doanh thì chẳng có nhiều tác dụng; đến lúc khách du lịch trở lại, chính sách thuế lại điều chỉnh lên 10%.
Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: