Bài: GS.TS. Trịnh Sinh
Ảnh: Amachau
Người Mường là một trong 4 dân tộc đông dân nhất Việt Nam. Các nhà khoa học Pháp là những người có nhiều công trình khảo sát về người Mường mang tính khoa học đầu tiên. Ông Pierre Grossin là học giả nhận thấy người Mường sống tập trung nhiều ở một vùng núi và đặt tên cho cuốn sách chuyên khảo của ông là Tỉnh Mường Hòa Bình, xuất bản năm 1926 và được xem là một trong những tài liệu sớm nhất định danh Mường cho một dân tộc để phân biệt với các dân tộc miền núi khác. Ngay sau đó, nhà dân tộc học Jeanne Cuisinier đã đi điền dã khắp những nơi có người Mường trong vòng 15 tháng và gần 20 năm nghiên cứu, đã để lại một tác phẩm để đời: Người Mường – Địa lý nhân văn và xã hội học.
Hóa ra, người Mường và người Việt cùng một gốc và là người bản địa từ thời văn hóa Hòa Bình cách đây hơn vạn năm, sau đó mới chia tách ra dần dần do tác động của hoàn cảnh lịch sử, địa lý. Người Mường vẫn sống chủ yếu ở miền thung lũng đá vôi và đồng bằng dưới chân núi, còn người Việt đã xuống đồng bằng ven các con sông lớn và biển. Theo truyền thuyết, họ đều chung một ông tổ là Hùng Vương, mà người Mường gọi là vua Dịt Dàng.
Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40 – 43 sau Công Nguyên), Mã Viện đã ra sức thu và phá trống đồng để lấy nguyên liệu đúc ngựa đồng đem về phương Bắc, nhiều trống đồng Đông Sơn đã bị hủy hoại. Tuy nhiên, chính sách hủy diệt trống đồng của nhà Hán chưa với tới được vùng núi của người Mường. Người Mường vẫn tiếp tục sử dụng trống đồng trong các nghi lễ của vòng đời, vẫn coi trống đồng gắn liền với hồn cốt dân tộc như thư tịch còn chép: “trống mất thì vận người Man cũng mất”, vẫn là biểu tượng của thủ lĩnh giàu có như các Quan Lang: “một cái trống có thể đổi được hàng ngàn trâu, bò…”
Tiếng trống đồng vẫn vang khắp rừng xa, bản gần. Kiểu dáng và hoa văn của trống cũng có sự thay đổi thành trống loại II Heger mà các nhà khoa học gọi là trống Mường vì được coi là báu vật gắn bó duy nhất với người Mường suốt từ thời Bắc thuộc đến thời quân chủ độc lập Lý, Trần, Lê…Dáng trống Mường có sự kế thừa từ dáng trống Đông Sơn, nhưng có vẻ đẹp riêng: dường như phần rìa mặt chờm ra khỏi tang, quai trống không ở đoạn tiếp giáp giữa tang và lưng trống mà nằm ở phần chính giữa tang. Mặt trống đều được trang trí từ 4 đến 6 khối tượng, có khi là tượng cóc chồng nhau, thể hiện quan niệm phồn thực, sinh sôi nảy nở của muôn loài. Cách trang trí của trống Mường là các vành hoa văn hình học đồng tâm hay song song phủ đầy khắp trống, gợi nhớ đến các dải hoa văn nhiều màu tựa như tấm vải dệt trên váy áo của các thiếu nữ Mường.
Có lẽ nữ tiến sĩ tốt nghiệp trường đại học Sorbonne (Pháp), chuyên gia nghiên cứu tín ngưỡng và nghi lễ ma thuật của các dân tộc châu Á, Jeanne Cuisinier đã có cái duyên với dân tộc Mường từ những năm 1930, chứng kiến vai trò của trống đồng quan trọng và nguyên vẹn trong các nghi lễ, tín ngưỡng. Trống đồng thường được người Mường chôn trong mộ chí, khi Thổ lang (thủ lĩnh vùng Mường hay còn được gọi là Chúa đất) hoặc người thân qua đời, trống đồng mới được mang ra đánh. Nhiều dịp lễ tết, cưới xin, báo tin… người Mường cũng đánh trống đồng. Khi Thổ lang từ trần, gia đình cho tìm thầy mo để báo tin. Ông ta kêu liền 3 lần ở cửa ra vào: “ông Chúa đất của tôi đã qua đời”. Chỉ lúc đó gia đình mới được phép khóc than. Cũng chỉ khi đó, người ta mới cho đánh trống đồng. Dụng cụ này chiếm một vị trí chủ chốt trong tang lễ ma chay của Thổ lang.
Truyền thuyết của người Mường còn kể lại: vua Dịt Dàng ở kinh đô, cùng những người em gái là bà Ngan và bà Ngà, đi gội đầu ở suối, khi chải tóc, họ trông thấy một chiếc trống đồng nổi lên mặt biển nước và trôi dạt vào bãi cát. Vua cho quân lính đem chiếc trống đó về và gọi thợ thủ công các nơi về lấy than làm chất đốt, làm khuôn để đúc 1.960 chiếc trống đồng và ban cho tất cả các chúa đất dưới quyền mỗi người một chiếc. Truyền thuyết đó đã nói về sự gắn bó giữa người Việt dưới đồng bằng và người Mường ở vùng núi.
Khảo cổ học cũng chứng minh khu mộ Mường Đống Thếch, xã Kim Bôi, tỉnh Phú Thọ (di tích cấp Quốc gia) đã được chôn theo trống đồng Mường là đồ tùy táng. Các dòng chữ Hán khắc trên “hòn mồ” bằng đá phiến cắm quanh mộ, cho thấy đây là mộ của viên quan lang Đinh Công Kỷ được phong làm Uy Lộc Hầu, Uy Quận Công là những chức Đại thần trong triều đình Đại Việt. Ông sinh năm 1582, mất năm 1650 thời Lê Trung Hưng. Có thể các vua Lê đã ban cho ông những chiếc trống đồng vừa có nét hoa văn của người Việt và người Mường và do các người thợ người Việt đúc từ dưới đồng bằng mang lên.
Trống đồng còn được người Mường coi là báu vật quý nhất của dân tộc mình. Chẳng thế mà người Mường ở vùng Lam Kinh (Thanh Hóa) đã từng đón các vị vua Lê về thăm cố hương bằng “lễ tế tẩm miếu dùng 4 trâu, đánh trống đồng, quân lính reo hò hưởng ứng”.
Ngày nay, một số vùng người Mường vẫn đánh trống đồng trong dịp lễ hội, vẫn còn những làng nghề truyền thống của người Việt đúc trống đồng cung cấp cho các vùng Mường. Phong tục, tín ngưỡng quanh chiếc trống đồng vẫn còn và hy vọng được bảo tồn để giữ lại di sản văn hóa của người Mường và tạo thành điểm nhấn trong việc phát triển du lịch ở nhiều địa phương.
Xem thêm bài viết liên quan:


