Bài: ANH THƯ
Ảnh: SHUTTERSTOCK
Với nhiều người, nhiều doanh nghiệp, câu hỏi nhức nhối giờ đây là lãi suất liệu có còn tăng tiếp và tăng tới bao giờ?
Sau ngày 22/9, ngày Ngân hàng Nhà nước nâng lãi suất điều hành thêm 1% cho các khoản tiết kiệm có thời hạn dưới 6 tháng, lãi suất thành câu chuyện sốt dẻo từ trang nhất báo chí tới bàn ăn. Mỗi tuần qua đi, câu chuyện dường như lại càng nóng.

Ngay sau khi Ngân hàng Nhà nước nâng lãi suất điều hành, các ngân hàng nhỏ đã gấp gáp tăng lãi suất huy động, để rồi chỉ chưa đầy một tuần sau đó, nhóm bốn ngân hàng lớn có vốn chi phối của nhà nước (còn được gọi là “Big 4 ngân hàng” – bao gồm Vietcombank, BIDV, Vietinbank và Agribank) bước vào cuộc đua tăng lãi suất huy động. Trong tuần tiếp theo đó, các ngân hàng nhỏ cũng tham gia vào guồng quay tăng lãi suất. Mỗi tuần qua đi, mức lãi suất huy động lại đạt một “đỉnh” mới.
Sự quan tâm hiện giờ của nhiều người không chỉ đơn giản là gửi tiết kiệm ngân hàng nào có lợi nhất, mà xa hơn còn là liệu lãi suất có còn tăng và tăng tới khi nào. Nhưng để trả lời câu hỏi đó, trước tiên cần điểm lại những lý do làm lãi suất tăng.
Khoảng cách giữa tăng trưởng huy động và tăng trưởng tín dụng
Trong 9 tháng đầu năm 2022, tăng trưởng tín dụng ở mức hơn 10% trong khi tăng trưởng huy động chỉ hơn 4%. Khoảng cách 6% khiến các ngân hàng phải gia tăng huy động tiết kiệm từ cư dân. Cầu huy động vốn sẽ khiến ngân hàng phải tăng lãi suất để thu hút tiền từ trong dân.
Lạm phát quốc tế và nhập khẩu lạm phát
Tin xấu đối với các quốc gia có tỷ trọng nhập khẩu nguyên vật liệu cao như Việt Nam là lạm phát ở Mỹ và nhiều quốc gia khác đang rất cao. Ở Mỹ và các nước trong Liên minh châu Âu (EU), lạm phát tăng cao liên tiếp trong năm 2022, lập kỷ lục trong 40 năm qua. Tháng 6/2022, lạm phát của Mỹ tăng lên mức 9,1%. Lạm phát đã lập kỷ lục mới của EU là 8,9% vào tháng Bảy và là tháng thứ 9 liên tiếp lạm phát tăng. Thống kê cho thấy trong 9 tháng đầu năm đã có 278 lượt ngân hàng Trung ương ở các quốc gia phải nâng lãi suất để chống lạm phát.
Nâng lãi suất sẽ khiến cho đồng USD lên giá và ảnh hưởng tiêu cực tới các nền kinh tế có tỷ trọng nhập khẩu nguyên vật liệu cao như Việt Nam. Trong bối cảnh đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, một đồng USD đắt hơn sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới ổn định sản xuất và gia tăng tác động của lạm phát chi phí đẩy do nhập khẩu lạm phát.

Tiền vào bất động sản quá nhiều và lấy vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn.
Trên báo chí, chuyên gia kinh tế Đinh Thế Hiển cho biết: “các kết quả khảo sát cho thấy, vốn ngân hàng đang chiếm đến 70% giá trị vốn bất động sản”. Các khoản vay bất động sản thường là các khoản vay trung và dài hạn. Tuy nhiên, theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước, từ ngày 1/10 , tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn sẽ phải giảm từ 37% xuống mức 34%.
Với tình trạng bất động sản đang thanh khoản thấp nên khó thu hồi các khoản vay, các ngân hàng phải gia tăng huy động bù vào những khoản vốn ngắn hạn, nhất là thời điểm cuối năm nhiều doanh nghiệp cần rút tiền. Muốn dễ huy động thì phải tăng lãi suất, đó là “cái giá của sự trừng phạt” như lời một số doanh nhân trong ngành ngân hàng nhận xét về việc lấy vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn quá nhiều.
Tắc kênh trái phiếu
Với các quy định mới theo hướng an toàn hơn, phát hành trái phiếu trở nên khó khăn hơn và không còn là công cụ đảo nợ của nhiều doanh nghiệp nữa. Chỉ một quy định về “nhà đầu tư chuyên nghiệp” đã hạn chế số đông cá nhân tham gia mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ bởi nhà đầu tư chuyên nghiệp được xác định bằng danh mục chứng khoán nắm giữ có giá trị trung bình từ 2 tỷ đồng tối thiểu trong vòng 180 ngày bằng tài sản của nhà đầu tư, không bao gồm tiền vay.
Tắc kênh trái phiếu, các doanh nghiệp sẽ phải quay lại với kênh tín dụng của ngân hàng, khiến cho nhu cầu tín dụng tăng. Nhu cầu tín dụng tăng sẽ khiến lãi suất tăng.

Nợ xấu tăng
Theo thống kê của FiinGroup, tính đến hết 30/6, tổng nợ xấu của 27 ngân hàng niêm yết ghi nhận 120.938 tỷ đồng, tăng 20%; riêng nợ xấu nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) tăng 40% lên hơn 62.316 tỷ đồng, chiếm 51,5% trên tổng nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu toàn ngành tăng từ 1,84% thời điểm đầu năm lên 2,13%. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu tăng từ 113% lên 118%.
Nợ xấu tăng nhanh sẽ buộc các ngân hàng phải hy sinh lợi nhuận để trích lập dự phòng và gia tăng huy động vốn.
Cuộc đua giữ khách
Ngay trong ngày đầu tiên Ngân hàng Nhà nước chính thức điều chỉnh trần lãi suất tiền gửi, hàng loạt ngân hàng thương mại đã tăng biểu lãi suất huy động ngắn hạn mới với nhiều kỳ hạn niêm yết ở mức tối đa cho phép. Chỉ bốn ngày sau, ba trong bốn ông lớn của “Nhóm Big 4 ngân hàng” là Vietcombank, VietinBank, Agribank đã điều chỉnh tăng lãi suất huy động. Sang tới đầu tháng 10, BIDV cũng đã phải tham gia cuộc đua.
Thực tế thường là khi ngân hàng nhỏ tăng lãi suất do cần huy động tiền từ kênh tiết kiệm, ngân hàng lớn trước sau gì cũng phải tăng theo, nếu không muốn mất khách. Khi đó, ngân hàng nhỏ lại phải tìm cách tăng tiếp hoặc tạo ra những lợi thế thu hút dòng tiền tiết kiệm vì họ không thể đua được về danh tiếng, tín nhiệm, mức độ an toàn với Nhóm Big 4. Cuộc đua lãi suất bắt đầu và diễn ra ngày càng mạnh hơn.
Tạo thêm dư địa ứng phó với tỷ giá
Ổn định tỷ giá đang là nhiệm vụ hàng đầu của Việt Nam bởi tỷ giá tăng khiến tiền đồng mất giá sẽ đẩy lạm phát lên cao và do đó ảnh hưởng nặng nề đời sống người thu nhập thấp. Hơn nữa, khi tỷ giá tăng mạnh, người dân có xu hướng rút tiết kiệm để đầu tư vào các tài sản khác (như ngoại tệ hay vàng) để bảo toàn giá trị tài sản, do đó muốn giữ chân nguồn tiền này thì theo lý thuyết về điểm hoán đổi tiền tệ (Swap point), lãi suất phải tăng để người nắm giữ tiền VNĐ cảm thấy có lợi hơn nắm giữ USD.
Tăng lãi suất do đó sẽ làm giảm áp lực tăng tỷ giá USD/VND, qua đó tạo thêm dư địa cho các cơ quan hoạch định chính sách ứng phó với những lần Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) còn có thể tăng lãi suất sắp tới. Trong năm 2022, FED đã tăng lãi suất 5 lần và gần như chắc chắn sẽ tăng tiếp vào tháng 11 này. Họ cũng đã đưa ra thông điệp cứng rắn về việc sẽ giữ lãi suất điều hành ở mức cao trong thời gian tới, bất chấp dự báo Mỹ có thể rơi vào suy thoái trong 12 tháng tới.
Nếu nhìn vào các lý do nói trên thì hầu hết đều là những lý do không thể giải quyết trong thời gian ngắn, hoặc là tác nhân quốc tế mà Việt Nam không thể tự quyết định. Do đó, nhiều doanh nhân cho rằng cuộc đua tăng lãi suất có thể sẽ còn dài. Kinh nghiệm thương đau của thời lãi suất 15% – 20% vào những năm 2011 – 2012 vẫn còn mới nguyên, làm nhiều doanh nghiệp hãi hùng.