Bài: Nhà sử học Lê Văn Lan
Ảnh: Tư liệu, Nguyễn Văn Cự, Phú Đức, Lê Việt Khánh, Hachi, Hà Hồng
Ra đời năm 1076, dưới triều vua Lý Nhân Tông, Quốc Tử Giám là ngôi trường có tuổi đời lâu nhất của Hà Nội. Thoạt đầu, đúng như sự định danh là “Ngôi trường dành cho những người con của quốc gia”, học sinh của trường Quốc Tử Giám là các vị hoàng tử và con cái hoàng tộc nhà Lý. Nhưng dần dà về sau, những sĩ tử bình dân mà có tài năng cũng được chiếu cố cho nhập trường. Để đến thời nhà Trần, thế kỷ 13, 14 – khi đất nước đã dồi dào những “thái học sinh” xuất thân dân dã, đặc biệt là khi đã có những hiệu trưởng như: “Vạn thế sư biểu” Chu Văn An thì đã đủ điều kiện để ngôi trường đổi tên thành “Nhà Thái Học”, tức: đích thực Đại học. Và, đến thời Lê, thế kỷ 15, nơi đây hiển nhiên đã thành một “lò đào tạo” những hiền tài cho đất nước.

Sau gần nghìn năm, đến nay, di tích ngôi trường quốc lập hoàng gia danh giá này vẫn nguyên vị từ khi ra đời: ngoài cửa nam “Đại hưng” của Hoàng thành, mạn nam của kinh thành Thăng Long, trên bờ của một vùng hồ nước xưa mênh mông – có tên gọi “Thái Hồ” – mà những mảnh ghép còn lại đến nay đang mang tên là: hồ Ba Mẫu, hồ Bảy Mẫu, hồ Thành Công, hồ Thiền Quang, hồ Hào Nam… Một hồ nước khác, đã thu nhỏ lại rất nhiều so với xưa kia có tên gọi “Hồ Văn” – vì là nơi đến ngâm vịnh thi ca của giáo sư trường Quốc Tử Giám và các tao nhân mặc khách chốn kinh kỳ – hiện vẫn đang là một bộ phận hữu cơ – ở mặt trước – của khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Và những ao chuôm – chứng tích của những vùng nước rộng ngày xưa – ở khu vực đang có ngõ phố mang tên “Văn Chương” – từng là nơi ở của các học viên Quốc Tử Giám, bây giờ vẫn toạ lạc ngay cạnh di tích ngôi trường này.

Truyền thống mở trường học bên bờ nước ở kinh đô nước Việt bắt đầu từ đó. Đến thế kỷ 17, một ngôi trường lừng danh của Hà Nội cổ cũng theo lối ấy mà nối tiếp. Đó là ngôi trường ở trại Hào Nam của thầy Vũ Thạnh. Đỗ đạt đại khoa năm 1685, sau một thời gian làm quan chức triều Lê – Trịnh, chán cảnh quan trường rối ren, Thám hoa Vũ Thạnh đã lui về mở trường dạy học trên một góc hồ Bảy Mẫu, thu hút hàng ngàn sĩ tử khắp nơi theo về. Trong những buổi giảng bài của thầy Vũ Thạnh, người đến nghe đông đến nỗi chật hết đất trường. Những người đến muộn – trong đó có cả các con của vua chúa cải trang thành học trò – phải ngồi trên những chiếc thuyền nan, ken đặc một góc hồ mà nghe lời thầy dạy, vang vang trên sóng nước.

Sang đến thế kỷ 18, ngôi trường Tự Tháp của tiến sĩ khoa thi năm 1779 Phạm Quý Thích đã thay vào chỗ nổi tiếng của trường Hào Nam mà mở ở gần ngôi chùa còn dấu tích của ngọn tháp Báo Thiên – đứng đầu “Tứ đại khí” từ thời Lý Trần – trông ngay ra hồ Lục Thuỷ – tên cũ của hồ Hoàn Kiếm bấy giờ.
Một học trò trường Tự Tháp là Vũ Tông Phan, sang đến thế kỷ 19, năm 1826 đã thi đỗ: “Tiến sĩ khai khoa” cho cả miền Hà Nội thời nhà Nguyễn, cũng lại rời chốn quan trường mà về ở gần ngôi trường Tự Tháp của thầy học cũ, mở một ngôi trường mới dạy học, lấy tên là “Hồ Đình”. Trường Hồ Đình của ông Nghè Vũ Tông Phan, sở dĩ có tên gọi như thế, là vì ở ngay trên bờ hồ Hoàn Kiếm, dưới bóng một cây đa cổ thụ (cây đa này bây giờ vẫn xum xuê trong sân Toà báo Nhân Dân trên phố Hàng Trống).

Ngôi trường bên hồ Hoàn Kiếm, vào những thập niên giữa thế kỷ 19, còn được mệnh danh là “Lò đào tạo các tiến sĩ, cử nhân Bắc Kì”. Tấm bia đá được dựng năm 1873 ở ngay cạnh gốc đa trường Hồ Đình để tôn vinh thầy Vũ Tông Phan, đã ghi tên tuổi các tiến sĩ, cát sĩ, phó bảng, cử nhân, tú tài, giám sinh, sĩ nhân… là học trò nhà trường, đứng đầu là Tiến sĩ Thượng thư Nguyễn Tư Giản và TIến sĩ đốc học Lê Đình Diên.
Cùng thời với trường Hồ Đình, cũng là học trò trường Tự Tháp, đồng thời là bạn cùng “một chiếu bút nghiên” với thầy Vũ Tông Phan còn có Tiến sĩ Phó bảng khoa thi năm 1838 Nguyễn Văn Siêu – từng được tôn là “Thần Siêu” (để sảnh với “Thánh Quát” – Cao Bá Quát)
“Thần Siêu” cũng chỉ sau một thời gian ngắn làm quan chức triều Nguyễn, đã lui về mở một ngôi trường hình vuông, gọi là “Phương Đình” ở giáp Giang Nguyên. “Giang Nguyên” có nghĩa là “Nguồn (cửa) sông” và “sông’ ở đây chính là dòng Tô Lịch giang nổi tiếng của Hà Nội xưa. Còn sở dĩ tên trường được đặt là Phương Đình không chỉ vì hình thù của ngôi trường là vuông vức độc đáo, mà còn chính là vì nhân danh một tuyên ngôn thơ của Nguyễn Văn Siêu:
“Cố tri “viên” thị trí
Nguyện thủ “phương” vi hình”
(Vấn biết “tròn” là khôn đấy
Nhưng nguyện giữ “vuông” làm mẫu hình)

Căn cứ vào đấy, ai cũng biết ngôi trường hình vuông, soi bóng ở cửa sông Tô Lịch của thầy Nguyễn Văn Siêu, nổi tiếng không chỉ vì có nhiều học trò giỏi, mà còn vì hướng đào tạo những con người giàu và vững khí tiết.
Những phẩm chất cao quý, tốt đẹp này, khi các ngôi trường ở Hà Nội xưa nhận về mình sứ mệnh rèn tạo cho các học trò, và đặt các cơ sở đào tạo đó ở bên bờ một vùng nước, thì đó là lòng tin và dựa vào thuyết phong thuỷ – địa lý, với sự khẳng địnht là: “Tụ thuỷ như tụ nhân”, nghĩa là: “Nơi có nước hội tụ chính là nơi tụ hội nhân tài”. Quan niệm cổ truyền này đồng thời cũng là một giá trị truyền thống trong “bảng giá trị” của Hà Nội xưa. Nó còn tồn tại, và được tuân thủ cho đến đầu thế kỷ 20, thời mà người Pháp mang theo nền văn minh phương Tây đến thống trị. Vào năm 1908, khi Toàn quyền Đông Dương Klobukovski cho thành lập ngôi trường trọng điểm danh giá mang tên: “Trung học Pháp quốc Bảo hộ”, mà đến năm cách mạng 1945 thì được mang tên hiển quý của vị “Vạn thế sư biểu” Chu Văn An, cũng chính là ngôi trường nổi tiếng có bề dày lịch sử, nơi đã đào tạo ra nhiều người con ưu tú của Việt Nam. Ngôi trường đó đã và vẫn đang ở ngay trên bờ của một vùng hồ nước sáng giá qua các thời của Hà Nội – từng được “Thi thánh” Cao Bá Quát ví với tuyệt thế giai nhân Tây Thi – Hồ Tây!