Bài: Nguyễn Phước Bảo Đàn
Ảnh: Long Hồ

“Đốt bệ để xông hương trầm,
Mở cửa đá tháp thần Po Klong Garai ayet
Đốt bệ trầm con mang mâm trầu lễ
Mở cửa tháp thần Po Klong ayet…”

Cùng với tiếng đàn Kanyi, lời bài hát ca ngợi thần linh trong Lễ mở cửa tháp của thầy Kadhar có thể xem là nghi thức quan trọng bắt đầu lễ hội Katé của người Chăm ở miền Nam Trung Bộ Việt Nam.

Người dân theo đạo tập trung về tháp chính từ đêm trước lễ hội

Nghi lễ tri ân tiên tổ

Katé thường diễn ra vào tháng 7 Chăm lịch (khoảng cuối tháng 9 đến đầu tháng 10 dương lịch), được tiến hành ở 3 đền tháp thuộc tiểu quốc Panduranga xưa (nay thuộc Khánh Hòa và Lâm Đồng): tháp Po Ina Nagar (xã Phước Hữu, Khánh Hòa), Po Klong Garai (phường Đô Vinh, Khánh Hòa), và Po Romé (xã Phước Hữu, Khánh Hòa). Trong Từ điển Chăm – Pháp do E. Aymonier và A. Cabaton biên soạn, Katé có nguồn gốc từ Katik trong văn hóa Ấn Độ giáo (Hindu giáo), có nghĩa là lễ cúng vào tháng 7 của lịch Chăm; ngoài ra, còn mang nghĩa rộng hơn là nghi lễ tưởng nhớ tổ tiên, các vị thần linh, những vị vua có công với đất nước đã được thần hóa, cầu mong mưa thuận gió hòa cho cộng đồng cư dân Chăm làm nông nghiệp và có nghề đi biển.

Vào trước ngày lễ, nghi thức đón rước y phục được tiến hành bởi cộng đồng Chăm và cộng đồng Raglai, một nhóm tộc người thuộc ngữ hệ Mã Lai – Đa đảo (Malayo – Polynesian) cư trú ở khu vực miền núi phía Tây tỉnh Khánh Hòa, Lâm Đồng hiện nay. Những người Raglai ở thôn Là A (phường Đông Ninh Hòa, Khánh Hòa) sẽ đảm nhận việc đưa trang phục của Po Ina Nagar tới đền tháp, người Raglai ở Phước Hà, Phước Hữu sẽ mang về trang phục của Po Romé và Po Klong Garai. Đó là những y phục truyền thống như váy áo, khăn, mũ, vòng tay, hoa tai bằng vàng được cộng đồng Raglai gìn giữ từ xưa. Đến ngày chính lễ, những vật dụng như tô, bát, chén bằng đồng, bạc, vàng cùng các lễ vật truyền thống như dê, chuối, trầu cau, bắp, đậu, nếp… được long trọng đưa về đền tháp.

Lễ vật được chuẩn bị chu đáo trước giờ cúng tế

Truyền thuyết của người Chăm kể rằng, họ và người Raglai là chị em ruột – người Chăm là chị, người Raglai là em út. Theo chế độ mẫu hệ, người con gái út có quyền thừa kế tài sản, giữ đồ gia bảo và phụng sự tổ tiên. Vì vậy, những trang phục vua chúa Chăm ở đền tháp đều do người Raglai nắm giữ.

Lễ vật trong nghi thức cúng tế gồm thịt dê, cơm, canh, rượu, hoa quả… Cùng với tiếng đàn Kanyi (hay còn gọi là Rabap), thầy Kahdar sẽ hát những bài ca ngợi thần linh, thầy Camanei – trợ tế trong nghi lễ và bà Bajau – người đốt hương trầm tẩy uế đền tháp, xin phép thần Po Ginuer Mancri (Siva) để mở cửa tháp. Tiếp đến là nghi lễ tắm tượng thần, mặc trang phục cho thần và cuối cùng là đại lễ.

Cùng trống Ginang, trống Baranưng, Hagar, kèn Saranai, chiêng, lục lạc, Asăng (tù và), Tăngek (nhạc cụ gõ bằng hai thanh gỗ), tiếng Mã la (nhạc cụ của người Raglai) cất lên dưới đôi bàn tay điêu luyện của các nghệ nhân như những dẫn chất xúc tác, làm tăng thêm không khí linh thiêng trong những ngôi tháp huyền bí. Sau khi điệu múa thiêng của bà Bajau kết thúc, lễ hội Katé bắt đầu với phạm vi làng và gia đình.

Katé – ngày hội của làng

Katé là nghi lễ tri ân tiên tổ của cộng đồng Chăm nơi miền nắng gió Nam Trung Bộ, nhưng cũng là lễ tết của làng, của các gia đình và cá nhân. Vào trước ngày lễ hội, những thiếu nữ Chăm tất bật chuẩn bị sợi vải, khung dệt để so tài qua những tấm thổ cẩm đầy màu sắc ở làng Mỹ Nghiệp. Ở làng gốm Bàu Trúc, đất sét, vật liệu nung cũng được chuẩn bị để làm nên những sản phẩm gốm Chăm nổi tiếng. Ở những ngôi làng khác, các cuộc thi đội chum gốm trên đầu, di chuyển nhanh nhẹn trong trang phục áo dài truyền thống càng thể hiện rõ vai trò nổi trội của người phụ nữ trong xã hội.

Bà con đội lễ vật, leo bậc thang lên tháp chính

Đến với những ngôi làng Chăm ở miền Nam Trung Bộ trong dịp lễ Katé, bạn sẽ được trải nghiệm nhiều loại hình sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian phong phú, được đắm mình trong không khí đậm chất văn hóa bản địa. Từ thần tích các vị vua đến những truyền thuyết về thần Đất (Po Bhum), thần Lúa (Yang Sri), thần Trời (Po Lingik), thần Sông (Yang Patao Aia)… tất cả tạo nên một kho tàng văn hóa sống động, hứa hẹn nhiều điều hấp dẫn cho người tìm hiểu. Màu sắc của những bộ trang phục, chiếc thắt lưng, khăn quấn đầu; chiếc tù và bằng vỏ ốc, hay chiếc đàn Kanyi làm từ mai rùa… phản ánh sự thích ứng của nhiều thế hệ người Chăm với môi trường cư trú gần biển khơi, nơi từ xa xưa, họ đã là một phần không thể tách rời.

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: