Thu Hà

Việt Nam là xứ sở của sông ngòi và biển cả nên từ lâu, hình ảnh ghe thuyền ngược xuôi trên sông nước đã trở nên thân thuộc với đời sống người dân khắp cả ba miền và đi vào những lời ca dao như “Con quạ nó đứng đầu cầu. Nó kêu bớ má ghe bầu vô chưa” hay “Thuyền về có nhớ bến chăng. Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.

Làng nghề đóng ghe Cần Đước (Ảnh: Báo Long An)

Tên gọi của ghe xuồng thì nhiều vô số kể, tùy theo công năng, kích cỡ và nơi xuất xứ mà người ta gọi bằng nhiều tên khác nhau. Miền sông nước Tây Nam Bộ thì có xuồng ba lá, vỏ lãi, phà, ghe đục. Theo nghiên cứu của J. B. Piétri trong cuốn sách Thuyền Buồm Đông Dương, các tỉnh phía Nam giáp biển như Gò Công, Kiên Giang, Vũng Tàu thì có ghe cửa, ghe lưới rùng (lưới rùng là loại lưới lớn chuyên đánh bắt cá gần bờ), các tỉnh ven biển miền Trung thì có ghe câu, ghe bầu, ghe giả, ghe trường của Hội An, ghe nang Đà Nẵng.

Đối với những con người mưu sinh trên sông nước, chiếc ghe không chỉ là phương tiện di chuyển hay công cụ đánh bắt mà còn là người bạn đồng hành, là mái nhà che nắng che mưa cho cả gia đình, là nơi họ gửi gắm khát vọng ra khơi bình an và trở về với những mẻ lưới đầy ắp tôm cá. Điều này thể hiện rõ nét qua đôi mắt ghe – chi tiết nghệ thuật mang đậm dấu ấn tâm linh.

Người thợ tạo tác mắt ghe ở Hội An (Ảnh: Đô thị cổ Hội An)

Đôi mắt ghe xuất phát từ nhiều câu chuyện được lưu truyền trong dân gian. Có người kể rằng, khi xưa người dân đi biển thường bị thuồng luồng – một loài thủy quái sống dưới nước làm hại, vua Thủy Tề thấy thế bèn bày vẽ cho ghe một đôi mắt, vì loài này ghét dị loại mà ưa đồng loại, kể từ đó thuồng luồng không còn quấy phá nữa. Người khác lại nói, mắt ghe được vẽ giống mắt chim ó – vốn là khắc tinh của thủy quái làm cho chúng khiếp sợ không dám quấy nhiễu. Còn theo tác phẩm văn học dân gian Lĩnh Nam Chích Quái, ghe cũng giống như người, cũng cần đôi mắt để dẫn đường, để xua đuổi thủy quái, và che chở con người trước nguy hiểm. Cứ thế mà tập tục vẽ mắt cho ghe được lưu truyền từ đời này sang đời khác, trở thành nét văn hóa tín ngưỡng của cư dân vùng biển và sông nước.

Ghe mắt dẹt với phần đuôi dài nhọn của miền Trung (Ảnh: Báo Quảng Nam)

Công đoạn vẽ mắt được thực hiện ngay khi ghe vừa đóng xong phần thân. Và quy trình vẽ mắt ghe cũng lắm công phu, đòi hỏi không chỉ người thợ vẽ phải là người khéo léo, giàu kinh nghiệm, am hiểu về ghe mà còn cả nghi thức tín ngưỡng được gọi là lễ “khai quang điểm nhãn” cho con thuyền mới.

Đôi mắt ghe gắn với sự bình an, nên ngày cử hành nghi thức nhất định phải chọn ngày lành tháng tốt. Lễ vật thì tùy địa phương có thể là muối, gạo, hoa, rượu và bộ tam sên (thịt heo – trứng – tôm) để cúng bái chư thần trước mũi ghe. Khai quang ngụ ý khai sáng, khai tâm trí cho con thuyền, từ một vật vô tri trở thành một vật linh bảo hộ ngư dân trước muôn trùng sóng gió. Điểm nhãn là hành động vẽ mắt, mở mắt cho con thuyền để nhìn xa trông rộng mà thấy cả chuyến hải trình phải đi sắp tới. Vì đôi mắt giữ vai trò quan trọng nên chủ ghe kiêng kỵ người lạ lấy tay che mắt ghe. Thậm chí, sau này nếu sửa chữa ghe, người thợ phải cẩn thận dùng vải che mắt ghe để tránh trầy xước.

Ở mỗi vùng miền, mắt ghe lại sở hữu một dấu ấn riêng. Thông qua đôi mắt, người ta có thể đoán biết con người và ghe thuyền đó đến từ vùng đất nào.

Mắt ghe dẫn đường trên biển cả (Ảnh: Đô thị cổ Hội An)

Mắt ghe Nam Bộ có con ngươi màu đen và tròng mắt màu trắng. Mắt ghe to tròn, hiền hòa nổi bật trên nền sơn đỏ cùng họa tiết chạy dọc hai bên mũi ghe tạo nên sự vui nhộn và gần gũi. Cư dân miền sông nước thường gọi là ghe lườn mũi đỏ.

Mắt ghe của các tỉnh miền Trung thường là mắt dẹt, có đuôi mắt bầu hoặc nhọn hoặc xếch lên hoặc nhìn xuống tùy theo quan niệm của từng nơi. Con ngươi nhìn xuống nước mang ngụ ý “nhìn thật sâu để tìm nơi có nhiều tôm cá”. Đường nét của mắt ghe Quảng Nam được mô phỏng theo mắt Cá Ông – một loài cá hiền lành được xem là vị cứu tinh của ngư dân trong những lúc nguy nan trên biển.

Đồng bào Khmer Nam Bộ có riêng cho mình một loại ghe ngo. Vào lễ hội Cúng Trăng Ok Om Bok, người Khmer tổ chức lễ hội đua ghe ngo truyền thống. Mỗi chiếc ghe tham gia thi đấu là đại diện cho một ngôi chùa, một phum sóc của người dân với hình ảnh biểu tượng là một sinh vật sở hữu sức mạnh như rồng, rắn, voi, cọp, đại bàng. Cặp mắt ghe ngo được chạm nổi bằng gỗ sao cho thể hiện đúng đặc trưng của loài vật biểu tượng, tổng thể làm cho chiếc ghe trở nên độc đáo và linh thiêng.

Ngày nay, tập tục vẽ mắt cho ghe tuy không còn phổ biến khắp nơi như xưa nhưng ý nghĩa dường như vẫn vẹn nguyên. Trước biển cả mênh mông, đôi mắt ghe thuyền tiếp thêm niềm tin, sức mạnh, khát vọng cho ngư dân để thuyền và người cùng nhau tiến ra nơi đầu sóng ngọn gió, vượt nhọc nhằn hiểm nguy và vui niềm vui được mùa trúng cá.

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: