Bài: Ngô Quang Minh
Ảnh: Nguyễn Hải

Người Quảng Trị vốn có câu “Chẳng thơm cũng thể hương đàn, Chẳng trong cũng nước nguồn Hàn chảy ra”. Chữ “Hàn” nằm trong tên gọi dân gian của sông Thạch Hàn, hay chính là sông Thạch Hãn ngày nay. Tên gọi đó theo Hán tự được giải nghĩa là “mạch đá ngầm mênh mang”.

Cổng chính Thành cổ Quảng Trị

Còn sách “Đại Nam nhất thống chí” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn thời vua Tự Đức có đoạn chép về sông Thạch Hãn rất chi tiết: “từ nguồn Viên Kiều ở bảo Trấn Lao (tức Lao Bảo ngày nay) chảy về đông, đến tuần Ngưu Tất, có khe Trà Nê đến từ phía Bắc châu Lang Thìn (tức phía Bắc Mường Phin, Savannakhet, Lào ngày nay) chảy vào, lại chảy về phía đông đến huyện Thành Hóa, có khe Tam Lưu từ phía Bắc chảy vào, quẹo tiếp về phía đông, qua phía bắc tỉnh thành Quảng Trị thì mang tên sông Thạch Hãn, đến ngã ba Cổ Thành chia làm hai nhánh: Một nhánh chảy lên đông bắc đến ngã ba Phú Ông, gặp sông Ái Tử (Vĩnh Phước) ở phía tây chảy vào, qua huyện Đăng Xương (tức Triệu Phong ngày nay), rồi ngã ba Đại Độ (tức ngã ba Tướng) gặp sông Điếu Ngao từ huyện Thành Hóa (sông Điếu Ngao qua cửa Điếu Ngao, đến xã Cam Lộ thì gọi là sông Cam Lộ), rồi qua ngã ba Giáo Liêm đổ ra cửa Việt. Một nhánh chảy xuống đông nam, chảy vào sông Vĩnh Định huyện Phong Điền, gặp sông Nhùng (Mai Đàn) từ phía tây tới, rồi theo hướng Nam tới huyện lỵ Phong Điền thì gặp sông Ô Lâu (Thác Mã), sau đó chảy về phía tây ra phá Tam Giang.”

Như vậy, từ trước tới nay, dòng Thạch Hãn vẫn luôn được coi là một con sông lớn và rất quan trọng, vừa cung cấp nước ngọt cho các vùng đồng bằng hạ lưu lại đóng vai trò làm huyết mạch thủy lộ cho toàn tỉnh Quảng Trị kết nối với các khu vực mà sông chảy qua.

Nhưng dòng Thạch Hãn thực sự đi vào dấu ấn của lịch sử dựng nước và giữ nước phải là trong giai đoạn cùng dân tộc ta trải qua 81 ngày đêm bão lửa, từ ngày 28/6/1972 đến ngày 16/9/1972, trong tháng năm chiến đấu anh dũng bảo vệ thành cổ Quảng Trị. Trong câu chuyện không thể quên ấy, lịch sử đã gọi 2 tiếng “Thạch Hãn”. Rất nhiều chàng trai cô gái đang tuổi đôi mươi đã theo mỗi khúc sông, theo từng tấc đất thành cổ để tận hiến thanh xuân.

Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?

(trích thơ Khúc bảy của Thanh Thảo).

Mưu sinh trên dòng Thạch Hãn

Nhiều người trong số họ đã xanh cùng năm tháng từ những ngày Hoa – Lửa khốc liệt năm ấy, hòa trong ánh nước dòng sông để “vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm” (trích thơ Lời người bên sông của Lê Bá Dương). Nụ cười của họ đã tô thắm lịch sử vẻ vang, quá khứ hào hùng, và cả tương lai hòa bình rạng rỡ cho Thạch Hãn, cho thành cổ, cho Quảng Trị; giúp thế hệ hôm nay có thể tự hào về mảnh đất kiên cường – là nơi yên nghỉ của bao người con trung hiếu.

Ngày hòa bình lập lại, Quảng Trị dần đổi thịt thay da. Trên nền xưa nơi từng hứng chịu hàng trăm nghìn tấn bom đạn chỉ trong giai đoạn 1972 khốc liệt, bảo tàng Lịch sử Thành cổ được dựng, dù còn đơn sơ nhưng vô cùng chân thực. Bên trong lưu giữ những bức thư gửi tiền tuyến, những lá cờ bạc màu thời gian, cùng bao kỷ vật vô giá đầy cảm xúc. Đặc biệt, ngay tại gian chính tầng trệt có treo 2 bức ảnh đen trắng do nhà báo Đoàn Công Tính chụp năm 1972. Bức ảnh giản dị, nước ảnh còn chưa phai nhòa theo thời gian, trong ảnh là ánh mắt và “nụ cười thành cổ” tươi rói của nhiều chiến sĩ giải phóng khi đó mới mười tám đôi mươi, đã “xếp bút nghiên theo việc đao cung” để “giã nhà đeo bức chiến bào” (Trích Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn). Họ nằm trong số hàng nghìn anh bộ đội mà cha con O Thu – hai người cũng có mặt trong bức ảnh – đã góp công chèo đò đưa qua sông. O Thu tên đầy đủ là Nguyễn Thị Thu, sinh năm 1954 ở Triệu Phong, Quảng Trị. Mùa hè năm 1972, O tròn 18 tuổi, trẻ trung nhiệt huyết và vô cùng dũng cảm. Trong bức ảnh lịch sử ấy, O Thu là thiếu nữ ngồi ở mạn trước đò tay ôm súng, bên cạnh người đàn ông đứng tuổi hào sảng và rắn rỏi tươi rói đang chèo đò cụ Nguyễn Con. Cha con họ đã bám trụ bên sông, mỗi ngày chèo không dưới 30 lần đò để vừa tiếp tế lương thực vũ khí, vừa chuyên chở bộ đội vượt sông và mang thương binh về tuyến dưới. O Thu năm nay vẫn khỏe, mái tóc đã bạc, đôi mắt ấy đã từng chứng kiến bao dấu bom vết đạn trút xuống Thạch Hãn, đôi tai ấy nghe đủ tiếng gầm rú của chiến tranh, đôi tay kiên cường ấy đã chèo hàng trăm chuyến đò chở quân và lương thực xuôi ngược dòng sông. Trong 81 ngày đêm không thể quên đó, “chưa một ngày nào cha con tôi nghỉ chèo, chưa một đêm nào được ngủ yên giấc”. Tấm ảnh kỷ niệm từ năm 1972 cho tới năm 2007 nhà báo Đoàn Công Tính mới tìm gặp lại để in lớn dành tặng O Thu. Sau 35 năm, tấm ảnh quý giá đã được treo trang trọng bên cạnh Huân chương kháng chiến Nhà nước trao tặng trong căn nhà nhỏ của o Thu – nơi từng chứng kiến bao cuộc hội ngộ của đồng đội chung màu áo lính cùng ngồi trên những chuyến đò sinh tử xuôi ngược dòng Thạch Hãn năm xưa.

Nơi gặp nhau của sông Hiếu và sông Thạch Hãn

Đất nước đã nên dáng nên hình nhờ những đóng góp, hy sinh thầm lặng, từ câu chuyện mỗi cuộc đời còn mất, và bởi thanh xuân của bao người nhỏ bé mà vĩ đại như thế! Còn dòng Thạch Hãn chưa một ngày lặng lẽ, tới hôm nay vẫn mang nặng phù sa chảy xuôi ra cửa Việt, hát mãi khúc tráng ca bất tử về miền cỏ cháy hào hùng. Trên khúc sông ấy, đò quê hương tôi luôn chèo nhẹ, và hoa độc lập đã thắm nở bên bến năm xưa.

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: