Bài: PGS.TS. Vũ Hùng Cường
Trong xu hướng chung là phi toàn cầu hóa thì dù ký được các hiệp định tự do thương mại (FTA), các rào cản kỹ thuật, thuế quan hoặc phi thuế quan cũng sẽ được dựng lên ngày một nhiều.
Ở Mỹ, nhiều người thích so sánh Bill Clinton với Donald Trump. Đều từng là tổng thống Mỹ, nhưng ông Clinton là người mạnh mẽ ủng hộ tự do thương mại và toàn cầu hóa; ngược lại, ông Trump lại đại diện cho chủ nghĩa bảo hộ, hay phi toàn cầu hóa với khẩu hiệu tranh cử “America First”, và đã thắng cử năm 2016.
Việc thắng cử khóa trước của ông Trump và sự thay đổi không nhiều về chính sách thương mại quốc tế của Mỹ, ngay cả khi ông ta bại trong tay tổng thống đương nhiệm Joe Biden, ít nhất đã gửi cho chúng ta một thông điệp: Thế giới đang phi toàn cầu hóa!

Tại sao phi toàn cầu hóa?
Toàn cầu hóa đã xóa bỏ rất nhiều “rào chắn” khiến cho việc lưu thông hàng hóa dễ hơn bao giờ hết; việc luân chuyển vốn, kỹ thuật và sản xuất từ nước này sang nước khác cũng đơn giản hơn rất nhiều. Trong mấy chục năm toàn cầu hóa, số người thoát đói nghèo tăng nhiều nhất trong lịch sử nhân loại. Thế giới đã thịnh vượng hơn nhưng toàn cầu hóa không phải chiếc đũa thần mang lại sự phát triển hoàn bích.
Những bất cập và thiếu quy định rõ ràng, sự yếu kém trong điều hành hoạt động thương mại của các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hay Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã làm nhiều nước bất mãn, nhất là trong các cuộc khủng hoảng toàn cầu như khủng hoảng kinh tế năm 2008, đại dịch Covid-19 và cuộc chiến Nga – Ukraine. Thương mại quốc tế đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng và các quốc gia có độ mở kinh tế cao phải tìm cách nâng cao khả năng tự chủ, giảm sự phụ thuộc vào thị trường thế giới, hướng tới nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp. Phi toàn cầu hóa ra đời trong bối cảnh đó.
Nhiều quốc gia đã rút dần khỏi các thỏa thuận toàn cầu, tìm kiếm các thỏa thuận song phương, đa phương theo khu vực, theo khối quốc gia có chung quan điểm và lợi ích. Các cường quốc thay đổi chiến lược còn mạnh mẽ hơn, như Mỹ dưới thời tổng thống Donald Trump đã rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), quay lại với chủ nghĩa bảo hộ.
Sự điều chỉnh hàng loạt chiến lược, chính sách liên quan đến thương mại quốc tế của các quốc gia hiện đều dựa trên nền tảng quan điểm phi toàn cầu hóa, thích ứng với xu thế chuyển sang trật tự thế giới đa cực, đa kênh, chuyển từ các thỏa thuận hợp tác thương mại quốc tế theo cấp độ toàn cầu sang các hiệp định song phương, đa phương theo khu vực và khối quốc gia với hiệu quả cao hơn, lợi ích rõ ràng và công bằng hơn.
Toàn cầu hóa và phi toàn cầu hóa song hành?
Phi toàn cầu hóa gắn với chủ nghĩa bảo hộ, là việc áp đặt mức thuế cao hơn để tính đến chi phí môi trường và xã hội của hàng hoá, giảm vận chuyển hàng hoá ở khoảng cách xa, thúc đẩy sản xuất tại chỗ, áp dụng lại các biện pháp kiểm soát vốn nhằm giảm ảnh hưởng của tài chính đối với nền kinh tế toàn cầu … trong khuôn khổ trật tự thế giới đa cực, đa kênh. Tuy nhiên, phi toàn cầu hóa không phải là sự chấm dứt thương mại quốc tế, mà là chuyển đổi sang phương thức hợp tác quy mô nhỏ gọn hơn, công bằng hơn, hiệu quả hơn.
Đáng chú ý nhất gần đây là Sáng kiến Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (IPEF) với Mỹ dẫn đầu và 14 nước (chiếm 40% GDP toàn cầu) tham gia đã đạt thỏa thuận hợp tác để củng cố chuỗi cung ứng các mặt hàng thiết yếu. Đây là thỏa thuận hợp tác đa phương đầu tiên của thế giới về chuỗi cung ứng hàng hóa thiết yếu, được xem như sự trở lại của Mỹ trong khu vực sau khi nước này rút khỏi TPP vào năm 2017.
Nhiều vấn đề vẫn cần được quản trị và hợp tác ở cấp độ toàn cầu. Đó là những vấn đề có tính truyền thống như biến đổi khí hậu, phát thải carbon, dịch bệnh xuyên biên giới hay mới xuất hiện như an ninh mạng, quản trị kỹ thuật số toàn cầu, quyền sở hữu trí tuệ hay thuế tối thiểu toàn cầu. Quản trị toàn cầu giờ đây đã chuyển sang mô hình thế giới đa cực với sự ảnh hưởng ngày càng gia tăng của các cường quốc mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ. Hơn nữa, thế giới đang dần tiến tới trật tự mới đa kênh với không chỉ các cường quốc, mà cả các chủ thể phi nhà nước như các tổ chức, các tập đoàn, các phong trào cực đoan và các phong trào xã hội đều có khả năng tác động đến trật tự toàn cầu.
Toàn cầu hóa do đó vẫn cần tồn tại nhằm giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu, nhưng song hành với đó là yêu cầu cải tổ cấu trúc toàn cầu, thiết lập một chương trình cải cách đa phương phù hợp với trật tự thế giới đa cực, đa kênh để đáp ứng tốt hơn yêu cầu về trách nhiệm và quyền lợi của các quốc gia liên quan.
Kinh tế Việt Nam và xu hướng phi toàn cầu hóa
Việt Nam đã hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Năm 2021, Việt Nam lọt top 20 quốc gia có nền thương mại hàng hóa lớn nhất thế giới, theo báo cáo của WTO. Tới nay, Việt Nam đàm phán, ký kết và thực thi 19 thỏa thuận thương mại tự do (FTA), trong đó 16 FTA đã có hiệu lực với hơn 60 đối tác, phủ rộng khắp các châu lục, chiếm phần lớn GDP toàn cầu. Nhờ đó, dù có xu hướng bảo hộ, hàng hóa của Việt Nam đã có mặt ở nhiều thị trường chủ chốt như Mỹ, Trung Quốc, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc và còn nhiều dư địa tăng trưởng với Trung Đông, Đông Âu, Nam Á, Mỹ Latinh.
Trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục ký kết, sửa đổi, bổ sung các thỏa thuận theo hướng ưu tiên bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia. Quán quân nông nghiệp năm qua là sầu riêng đã cho thấy sự khác biệt khi hàng hóa xuất khẩu tiểu ngạch được chuyển sang chính ngạch: kim ngạch xuất khẩu đã tăng khoảng 20 lần, vượt mốc 2 tỷ USD trong năm 2023!

Bên cạnh đó, Việt Nam cần có các giải pháp hiệu quả để đảm bảo thực thi đầy đủ, trách nhiệm và đúng lộ trình các cam kết trong các FTA. Ngoài những cam kết của nhà nước, trách nhiệm của các doanh nghiệp cũng rất lớn.
Doanh nghiệp Việt được tham gia sân chơi rộng tầm khu vực nhờ các FTA, thì cũng có nghĩa các doanh nghiệp nước ngoài có thể gia nhập và cạnh tranh với họ ngay trên thị trường trong nước. Nếu không có những chuyển biến mạnh mẽ, nguy cơ doanh nghiệp Việt “thua ngay trên sân nhà” là có thật và đã được chứng minh qua nhiều nông phẩm được nhập vào Việt Nam.
Ngoài ra, trong xu hướng chung là phi toàn cầu hóa, thì dù ký được các FTA, các rào cản kỹ thuật, thuế quan hoặc phi thuế quan cũng sẽ được dựng lên ngày một nhiều. Mỹ, EU, Canada, Anh… đang ngày càng đặt ra nhiều tiêu chuẩn mới liên quan đến chuỗi cung ứng, nguyên liệu sạch, lao động, môi trường, quản trị, nguồn gốc xuất xứ, các rào càn phi thuế quan về kỹ thuật, về thực hành kinh doanh có trách nhiệm, vệ sinh an toàn thực phẩm… đối với các sản phẩm nhập khẩu. Ví dụ gần nhất là Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của Liên minh châu Âu (EU) với mục tiêu đảm bảo công bằng cho các doanh nghiệp châu Âu.
Điều này sẽ đòi hỏi các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ và có hiểu biết tốt về các thỏa thuận thương mại quốc tế mà Việt Nam ký kết và tham gia. Tuy nhiên, đó lại có thể là một khó khăn lớn khi 95% các doanh nghiệp Việt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ với nguồn lực dành cho pháp chế hay nghiên cứu đều rất thấp.
Về nội tại, doanh nghiệp cần “tự làm mới mình”, nâng cao năng lực và khả năng chống chọi với các khủng hoảng của thị trường. Chuyển đổi số, tăng cường ứng dụng công nghệ số trong quản lý và điều hành tất cả các công đoạn trong quy trình sản xuất và thương mại sản phẩm là bước đi có tính đột phá nhưng đòi hỏi phải có nguồn lực đầu tư, công nghệ và nhân lực quản trị. Lựa chọn một hoặc một vài công đoạn sản xuất để đầu tư chuyên sâu và “vào được” chuỗi cung ứng được coi là chiến lược thông minh và phù hợp với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Quote: “Thuật ngữ phi toàn cầu hoá xuất hiện từ đầu thế kỷ XXI, gắn liền với sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ, sự chuyển dịch sang trật tự thế giới đa cực, đa kênh.”
PGS.TS. Vũ Hùng Cường có 29 năm công tác tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, trong đó có 12 năm giữ chức vụ Viện trưởng và tương đương. Hướng nghiên cứu chính của ông là kinh tế tư nhân, phát triển doanh nghiệp, kinh tế vùng. Ông đã chủ trì và tham gia nhiều đề tài cấp quốc gia; chủ biên và tham gia viết nhiều sách chuyên khảo; là tác giả và đồng tác giả nhiều bài viết, tham luận trên các tạp chí, hội thảo quốc tế và trong nước.
Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: