Bài: TRƯƠNG QUÝ
Ảnh: AMACHAU
Sông Hồng trước đây vẫn được gọi bằng cái tên sông Cái, đồng nghĩa với sông lớn, sông mẹ. Dòng chảy sông Hồng đã tạo nên diện mạo Hà Nội cả về cảnh quan lẫn chính tên gọi của thành phố, vì thế từ bao đời, con sông trở thành mối bận tâm, niềm thương nỗi nhớ của người Hà Nội.

Cái tên sông Hồng có lẽ mới chỉ phổ biến khi người Pháp nhìn màu nước sông mà gọi (fleuve Rouge), cũng để phân biệt với sông Đà là sông Đen (rivière Noire) và sông Lô được gọi là sông Trong (rivière Claire), hai phụ lưu chính của sông Hồng. Khúc sông Hồng chảy qua địa phận Hà Nội nằm chính giữa châu thổ tạo nên bởi phù sa của hệ thống sông này, vì thế lẽ tự nhiên là chốn tụ hội phồn thịnh nhất của vùng cư trú lâu đời của người Việt từ hàng ngàn năm qua. Một chuyến hành trình qua 163km của đoạn sông qua các quận huyện của Hà Nội cũng là một cuộc du khảo những sắc thái tiêu biểu của vùng văn hóa Bắc Bộ.

Dòng chảy mang trầm tích cổ
Sông Hồng bắt đầu chảy vào địa phận ngoại thành Hà Nội từ ngã ba Trung Hà, nơi sông Đà uốn khúc nhập dòng. Đây cũng là vùng đất cổ của người Việt từ nhiều thiên niên kỷ, nằm ở phía Tây kinh thành Thăng Long từ xưa được phân định là trấn Sơn Tây, còn gọi là xứ Đoài. Con sông Hồng chảy qua đất Ba Vì, Sơn Tây, hợp với núi Tản Viên, ngọn linh sơn của người Việt cổ thành một thế sơn thủy hữu tình. Ven dòng sông là những ngôi đình làng nổi tiếng đã làm nên danh tiếng vùng đất trong câu phương ngôn: “Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài”, đó là những ngôi đình xếp vào hàng di tích quốc gia như Tây Đằng, Chu Quyến, Thụy Phiêu có tuổi đời cách đây 500 năm… Đình làng xứ Đoài, nơi tụ họp của cư dân, thừa kế cấu trúc những nhà sàn vùng bán sơn địa với hệ cột gỗ lim khổng lồ, sàn cao cách mặt đất để tránh lũ và côn trùng, hệ mái đặc trưng kiểu “thượng rường hạ kẻ” đỡ lấy lớp ngói đồ sộ với những mái đao cong vút lên như mũi thuyền trên đồng lúa hay dòng sông. Màu nâu trầm của mái đình bên con đê xanh mướt cỏ, dưới bóng cây gạo hoa nở đỏ chói, đã thành điểm nhấn dọc dòng sông mẹ.

Xuôi về hạ lưu, là vùng đất Phúc Thọ và Mê Linh hai bên bờ sông, nơi ghi dấu cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40 chống lại ách cai trị của nhà Tây Hán. Nếu bờ bắc thuộc huyện Mê Linh được coi là quê hương của hai vị nữ vương thì bờ nam có di tích Hát Môn, nơi hai Bà trầm mình tuẫn tiết khi thua trận. Ngôi đền thờ cổ kính nằm ở vị trí sông Hát, một khúc của sông Đáy hòa nước sông Hồng. Tương truyền, hai pho tượng hóa thân của hai Bà đã xuôi dòng sông Cái về đến địa phận làng Đồng Nhân ở nam vùng Đại La, tức nội thành Hà Nội ngày nay. Người dân đã vớt lên và lập miếu thờ bên sông, sau đó lập đền thờ lớn ở địa phận làng Hương Viên ở nơi cao ráo. Đây là một cụm di tích quan trọng bậc nhất ở Hà Nội, đồng thời quận trung tâm phía Nam nội thành đối diện sông Hồng cũng được mang tên Hai Bà Trưng.
Nội thành Hà Nội bắt đầu với địa danh Từ Liêm, cái tên Hán Việt của Chèm, một địa danh cổ. Ở bến Chèm trông ra dòng sông là ngôi đình thờ Lý Ông Trọng, một vị tướng tương truyền xuất xứ hai nghìn năm trước. Ngôi đình Chèm nổi tiếng vì kiến trúc bề thế kiểu nội công ngoại quốc, với những bức tường gạch nung già và những hiện vật quý thời Hậu Lê. Ngay cạnh đình Chèm là làng Đông Ngạc, tên nôm là Kẻ Vẽ, nổi tiếng là làng khoa bảng và giàu có nhiều đời, nhiều người đỗ đạt cao làm quan to. Làng Đông Ngạc ngoài ngôi đình Vẽ còn giữ được nhiều ngôi nhà cổ kiểu đại khoa truyền thống lẫn những biệt thự mang phong cách kết hợp Pháp – Việt.
Dải thành phố bồi từ phù sa
Khu vực Chèm và Đông Ngạc cũng từ lâu được giới trẻ yêu thích vì những bãi tre ngút mắt chân đê, từ đây có thể nhìn ra những cây cầu như Thăng Long và Nhật Tân, hai cột mốc hai thời kỳ phát triển của Hà Nội ở thập niên 1980 và 2010.

Con sông Hồng đến đây đã từng uốn khúc tạo ra hồ Tây, nay dòng chính theo hướng tây bắc – đông nam, tạo ra một loạt những bãi bồi. Đây chính là đất của những làng hoa nổi tiếng: đào Nhật Tân, quất Tứ Liên, hoa Quảng Bá… Ngày nay, tuy đất trồng hoa đã thu hẹp lại, song ở những bãi bồi đã hình thành những khu vực “dinh đào”, nơi trồng loại hoa biểu tượng ngày Tết hay các địa điểm du ngoạn cho giới trẻ như bãi đá sông Hồng, bãi giữa chân cầu Long Biên, những khoảng xanh giữa lòng thành phố, một bối cảnh cho vô số thước phim và bức ảnh khác lạ cho Hà Nội. Những bãi sông bên tả ngạn như vườn nhãn Long Biên chân cầu Vĩnh Tuy hay doi đất Bắc Cầu nơi ngã ba sông Đuống đổ vào sông Hồng cũng trở thành địa điểm cắm trại rất được yêu thích gần đây của cư dân Hà Nội, nơi họ có thể ngắm hoàng hôn buông xuống trên đường chân trời đã định hình dày đặc những cao ốc ở phía trung tâm.
Mặc dù đã có thêm những cây cầu mới, song cầu Long Biên với chất liệu sắt đượm thời gian của 120 năm vẫn không ngừng thu hút du khách tới dạo bước và chụp ảnh. Ga đầu cầu đã không còn thuần túy một nhà ga nhỏ mà trở thành nơi chốn góp vào chuỗi điểm đến du lịch của Hà Nội. Nỗi hoài niệm và vẻ bàng bạc của khung cảnh phố cổ bên dưới những vòm cầu dẫn bằng đá khiến cho sông Hồng gần lại với phố xá, thay vì cách trở một dải đê cao.

Khúc uốn huyền thoại và thủy trình tương lai
Sau khi chảy một đoạn tương đối thẳng ở nội thành, sông Hồng bắt đầu uốn khúc ở huyện Thanh Trì. Dọc những khúc lượn này là những bến đò và làng nghề nổi tiếng, trong đó Bát Tràng đã nổi tiếng từ lâu với phiên chợ gốm của làng. Ngôi làng cách Hà Nội chừng 13km, đã xuất đi khắp nơi sản phẩm của mình từ bến sông quê. Xuôi tiếp dòng sông là những cụm di tích liên quan sự tích Chử Đồng Tử hay các địa danh chiến thắng thủy quân đời Trần thế kỷ 13 như Chương Dương, Hàm Tử… Trong tiếng gió dào dạt, người du ngoạn nhớ đôi câu thơ cổ Trần Quang Khải viết lúc khải hoàn về kinh thành Thăng Long: Thái bình nên gắng sức, non nước ấy nghìn thu (bản dịch Trần Trọng Kim).

Dọc các bãi sông là những ngôi làng trù phú, nối nhau bằng những con đường rợp bóng cây xanh và lộng gió, rất hợp để rong ruổi trên những chiếc xe đạp với những ai ưa vận động bằng đôi chân khỏe mạnh. Những ngôi đền, chùa ven sông của các ngôi làng kết hợp với bến bãi tạo ra một hệ thống không gian công cộng, như một diện mạo khác của thành phố, khoáng đạt và giàu tiềm năng. Thành phố đã đến lúc nhìn thấy mặt tiền mới của mình, quay lại với thuộc tính sông nước ban đầu làm nên bản thể. Một thủy trình thường ngày mà lãng mạn dọc sông hay một con đường dạo bộ, đạp xe kết nối các không gian xanh, là ước mơ năm tháng của người Hà Nội.