Bài: Anh Thư
Ảnh: Shutterstock

Quy định mới về hàng hóa nhập khẩu vào châu Âu (EU) có thể tạo thành tiền đề cho các quốc gia khác bổ sung quy định về phát thải khí nhà kính đối với hàng hóa nhập khẩu vào thị trường của họ.

Nếu doanh nghiệp của bạn đang xuất khẩu sản phẩm vào thị trường châu Âu, đây có thể là tin xấu: các nước EU đã kích hoạt Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon CBAM (Carbon Border Adjustment Mechanism) từ ngày 1/10/2023.

Dẫu chưa ngay lập tức gặp khó với việc xuất khẩu vào EU hay bị tăng thêm chi phí xuất khẩu, doanh nghiệp cần bắt tay ngay vào việc chuẩn bị các báo cáo về lượng phát thải khí nhà kính trong sản xuất và tính đến việc phải “xanh hơn”, nếu muốn tiếp tục làm ăn với họ.

Rất tiếc, theo Trung tâm WTO Việt Nam trên sóng truyền hình quốc gia, có chưa tới 50% số doanh nghiệp tại Việt Nam biết về CBAM, số còn lại có nghe nói nhưng chưa tìm hiểu kỹ và chỉ có 4% tìm hiểu kỹ về CBAM. Mức độ quan tâm này thực sự không đủ cho một cơ chế quan trọng, có thể ảnh hưởng sâu rộng tới hàng hóa xuất khẩu vào thị trường này.

Tại sao lại có CBAM?

EU có tham vọng lớn về giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường, do vậy, các nhà sản xuất của EU đang phải tuân thủ những quy định rất nghiêm ngặt về bảo vệ môi trường. Nhưng cũng chính vì vậy, họ có thể mất lợi thế khi sản phẩm của họ phải cạnh tranh với những nhà sản xuất đang phát thải nhiều hơn ở các quốc gia khác. CBAM là cơ chế thương mại có mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính và được thiết kế để giải quyết vấn đề này.

Bằng cách tính thuế carbon tương ứng với lượng phát thải dùng để sản xuất hàng hóa nhập khẩu vào EU từ các nước có mức thuế phát thải thấp hơn hoặc không đánh thuế này, EU buộc các nhà sản xuất ngoài EU phải cải tiến công nghệ để giảm phát thải về mức tương đương với các nhà sản xuất của EU; hoặc phải trả thuế cao để đảm bảo cạnh tranh công bằng. Nói cách khác, CBAM sẽ buộc hàng hóa kém “xanh” lên giá do thuế cao và làm chúng kém cạnh tranh hơn những hàng hóa “xanh” do các nhà sản xuất của EU làm ra.

CBAM hiện đang được áp dụng cho 6 ngành là thép, nhôm, hydrogen, phân bón, xi măng và điện.

Mức độ ảnh hưởng của CBAM tới các ngành và các quốc gia rất khác nhau. Chẳng hạn, về tổng thể, CBAM ảnh hưởng không lớn tới Việt Nam do kim ngạch xuất khẩu trung bình 5 năm 2017 – 2021 của những ngành hàng là đối tượng của CBAM chỉ vào khoảng hơn 1 tỷ USD. Và, trong 6 ngành hàng nói trên, Việt Nam chỉ xuất khẩu sang EU 4 ngành hàng là thép, nhôm, phân bón và xi măng, trong đó thép bị ảnh hưởng nặng nhất khi EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của mặt hàng này, còn kim ngạch xuất khẩu 3 mặt hàng còn lại đều ở dưới mức 50 triệu USD/năm.

Tuy vậy, ảnh hưởng của CBAM có thể sẽ rất lớn, nếu cơ chế này được mở rộng để bao trùm phát thải gián tiếp và sang các ngành hàng khác thuộc Hệ thống Thương mại Khí thải Liên minh châu Âu – EU-ETS (EU Emissions Trading System). Nhiều chuyên gia cho rằng các ngành hàng khác “cần chuẩn bị” vì dù ngành hàng của họ không có trong danh mục hiện nay, không có gì hạn chế EU đưa thêm nhiều ngành hàng hơn vào CBAM.

CBAM triển khai như thế nào?

Cơ chế CBAM có lộ trình 3 giai đoạn là Chuyển tiếp, Vận hành và Vận hành toàn phần.

Theo đó, trong Giai đoạn chuyển tiếp từ tháng 10/2023 đến tháng 12/2025, các nhà nhập khẩu sản phẩm của 6 ngành được áp dụng CBAM phải báo cáo lượng phát thải của các lô hàng hóa họ nhập vào EU. Báo cáo đầu tiên sẽ phải nộp trước ngày 31/1/2024.

Để tính toán lượng phát thải của hàng hóa nhập khẩu, EU áp dụng ba cách tính. Họ ưu tiên cách tính toán phát thải thực tế nhưng cũng chấp nhận 02 cách tính phát thải “mặc định”. “Giá trị mặc định” sẽ được sử dụng để xác định phát thải của hàng hóa trong trường hợp phát thải gián tiếp hoặc khi không thể xác định được đầy đủ giá trị phát thải trực tiếp.

“Giá trị mặc định cho suất phát thải trung bình” của từng quốc gia xuất khẩu cho từng hàng hóa thuộc CBAM sẽ do EU tính toán, cập nhật và ban hành dựa trên “thông tin cập nhật và đáng tin cậy nhất, gồm thông tin do nước xuất khẩu hoặc nhóm nước xuất khẩu cung cấp”. Ngoài ra, còn có “Giá trị mặc định dựa vào các cơ sở phát thải cao nhất ở EU” cho từng loại mặt hàng.

Trong giai đoạn chuyển tiếp, các nhà nhập khẩu phải nộp báo cáo về phát thải nhưng chưa bị áp thuế phát thải. Tuy nhiên, họ có thể sẽ phải đối mặt với mức phạt từ EUR 10 – 50 cho mỗi tấn khí thải không báo cáo.

Từ tháng 1/ 2026, CBAM bắt đầu được dần đưa vào cùng với việc loại bỏ dần hạn ngạch miễn phí của EU ETS. Vào năm 2027, EU sẽ thực hiện rà soát toàn diện về CBAM.

Giai đoạn vận hành toàn phần, đồng nghĩa với việc bãi bỏ hoàn toàn hạn ngạch miễn phí của EU ETS, sẽ bắt đầu từ năm 2034.

CBAM và tín chỉ carbon

Một câu hỏi hiện chưa khẳng định được là: “Liệu các doanh nghiệp xuất khẩu vào EU có thể dùng tín chỉ carbon để bù trừ cho chứng chỉ CBAM hay không?”. Nếu có, cách thực hiện đó sẽ giúp CBAM tránh được nhiều kiện tụng của các quốc gia xuất khẩu, các quy định về thuế bất hợp pháp của WTO. Hơn nữa, CBAM còn có thể tạo ra thêm thị trường cho tín chỉ carbon.

Nói cách khác, nếu nhà sản xuất chưa đạt chuẩn phát thải EU có thể mua tín chỉ carbon tại quốc gia của họ và dùng nó để thay thế một phần hay toàn bộ các tín chỉ CBAM phải mua, đó sẽ là một cơ hội lớn đối với tín chỉ carbon bởi thị trường của tín chỉ sẽ thêm rộng mở. Giá tín chỉ carbon do đó chắc chắn sẽ được nâng lên, dù có thể còn cách xa mức giá ở EU. Giá tín chỉ carbon của Trung quốc hiện chỉ là 9USD/tấn, trong khi giá ở EU cuối tháng 9 vừa qua là khoảng EUR 80/tấn.

Tuy nhiên, nhiều nhà môi trường cũng lo ngại rằng nếu cho phép bù trừ bằng tín chỉ carbon, các nhà sản xuất sẽ chỉ tập trung vào “khử carbon” bằng nguồn mua tín chỉ thay cho việc cải tiến công nghệ, vốn rất đắt đỏ và nhiều rủi ro. Trong trường hợp đó, mục tiêu cắt giảm phát thải dường như không đạt được.

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: