Bài: Trần Hồng Liễu
Ảnh: Tuệ Lâm
Món tương Bần mộc mạc, thấm hồn đồng đất quê hương vẫn là món chấm ưa thích trên mâm cơm Việt ngày nay.

Tháng 3, nắng lên… Sau những ngày bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành… bỗng thèm vị man mát, thanh thanh, bùi bùi, mằn mặn của rau muống hay đậu phụ luộc chấm tương Bần.
Người Hà Nội vốn sành ăn, họ ca tụng thức ngon ở các vùng rằng: “Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét”. Tương Bần là đặc sản của làng Bần, nay thuộc phường Bần Yên Nhân, thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Thức chấm dân dã này bắt đầu xuất hiện trong bữa cơm hàng ngày của người dân làng Bần từ thế kỷ 12 – 13 nhờ bàn tay tần tảo của những người phụ nữ nơi đây. Tháng ba ngày tám một nắng hai sương, ngoài việc trồng lúa, họ còn xen canh các loại hoa màu khác như ngô, khoai, sắn, đỗ, lạc… trong đó có đỗ tương. Tận dụng tối đa nông sản sẵn có, từ đỗ tương, nếp cái hoa vàng và muối trắng, các bà các mẹ khéo léo kết hợp chúng với nhau để làm ra món chấm mộc mạc đồng quê. Tương Bần ra đời từ đó, bình dị như chính cuộc sống của người nông dân Bần Yên Nhân xưa vậy.

Tương Bần là sản phẩm tự cung tự cấp của người dân làng Bần trong suốt vài thế kỷ, và số phận nó tưởng đã an bài như vậy. Thế nhưng, bước vào thế kỷ 20, cùng sự xuất hiện của các đô thị, sự mở rộng của hệ thống đường sá và sự phát triển của tầng lớp tiểu nông, sản phẩm tự cung tự cấp tại một số vùng miền bắt đầu có những cuộc “vượt biên” ngoạn mục đế đến với người dân ở các vùng đất khác. Tương Bần cũng vậy. Vào giữa những năm 30 của thế kỷ trước, tương Bần bắt đầu được bày bán trên Quốc lộ 5 nối Hà Nội – Hải Phòng, rồi từ đó tỏa đi muôn nơi. Vị bùi bùi, mằn mặn như kết tinh từ bao giọt mồ hôi bỗng trở nên hấp dẫn đến lạ khi kết hợp với vị ngầy ngậy của miếng đậu phụ rán hoặc vị thanh mát của gắp rau muống luộc đầu hè. Tương làng Bần được người ta biết, rồi thương, rồi nhớ… từ những ngày xa xăm ấy.
Có đến Bần Yên Nhân, mục sở thị những người phụ nữ tảo tần nơi đây làm tương mới thấy hết cái kiên trì, tỉ mỉ, vất vả của quá trình tạo nên thứ gia vị chấm mang hồn ruộng đồng ấy. Giữa những mẹt, những thúng đỗ tương vàng màu tơ non, giữa đấu nếp cái hoa vàng trắng đục… các bà các chị miệt mài sàng sảy để loại bỏ hạt xấu, hạt lép… rồi vào mốc – công đoạn quan trọng nhất của quá trình sản xuất tương. Mốc tương thu được từ quá trình lên men xôi nếp. Theo các cụ trong làng kể lại, để có sản phẩm giữ đúng vị truyền thống, ngoài gạo nếp và đỗ tương được trồng trên đất bãi của làng, ngoài nguồn nước được lấy từ giếng Đanh – giếng làng, người dân nơi này còn phải trộn tương với muối Hải Hậu, đựng tương trong chum Thổ Hà và phơi nắng chờ tương ngấu từ 2 đến 6 tháng (có khi lên đến 2 năm). Thiếu một trong các yếu tố trên sẽ không có tương Bần đúng nghĩa. Giữa hàng trăm chiếc chum sành nâu bóng màu da lươn phơi dưới cái nắng vàng như mật ong, người làm tương tất tả trút tương từ xô vào chum, rồi đảo tương, kiểm tra màu. Ngày thu hoạch tương đến gần khi màu tương sậm lại, cùng với đó là niềm vui có tấm áo, đôi giày mới của bọn trẻ và kế hoạch đảo lại mái ngói, lát lại sân nhà hay xây thêm tường rào của bố mẹ chúng. Dưới bóng nón trắng, đằng sau lớp khăn che kín mặt chỉ hở đôi mắt của người phụ nữ làm tương đã thấy thấp thoáng nụ cười.

Các thế hệ sau của làng Bần, ngoài những người ở lại quê hương để tiếp tục giữ nghề, giữ truyền thống, văn hóa do tổ tiên tạo dựng, cũng có nhiều người lập nghiệp ở các phương trời. Dẫu được thưởng thức đủ sơn hào hải vị, hẳn họ vẫn không thể quên vị bùi ngậy, đậm đà cùng hương thơm của những bát tương chấm mang hồn quê, hồn người.
Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: