Bài TRẦN HỒNG VÂN
Ảnh DESILK, INTERNET

Từ lâu, Việt Nam đã được thế giới nhìn nhận như một quốc gia có lịch sử tơ lụa lâu đời.

Trải qua hàng nghìn năm với nhiều vùng trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa nổi tiếng như Cổ Đô, Vạn Phúc (Hà Nội), Nha Xá (Hà Nam), Cổ Chất (Nam Định), Duy Duyên, Mã Châu (Quảng Nam), Tân Châu (An Giang),… đặc biệt là thủ phủ tơ lụa Bảo Lộc (Lâm Đồng) đang nổi lên trên bản đồ tơ lụa thế giới thời gian gần đây.

Khăn lụa tơ tằm Kỳ Lân Vàng

Ngàn năm tơ lụa bắt đầu từ nương dâu, con tằm

Nghề tằm tang đã xuất hiện và tồn tại trong dân gian từ hàng ngàn năm nay. Nương dâu, con tằm gắn bó với cuộc sống người Việt từ những ngày đầu dựng nước và đi vào trong ca dao, tục ngữ, truyền thuyết… lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Theo huyền sử, Công chúa Thiều Hoa, con vua Hùng thứ 6 là bà tổ của nghề tằm tang. Do thông minh, lại giỏi quan sát, công chúa đã nắm được bí quyết kéo tơ từ kén tằm và dệt thành lụa. Từ đó, nàng không sống trong cung mà chọn Cổ Đô, một ngôi làng nép mình bên dòng sông Đà, để truyền dạy nhân dân trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ và dệt lụa. Nhờ nàng, lụa Cổ Đô trở thành sản vật tiến vua và đi vào câu ca dao vang tiếng muôn đời: “Lụa này thật lụa Cổ Đô – Chính tông lụa cống các cô ưa dùng”.

Trên khắp miền quê, đâu đâu cũng bắt gặp những nương dâu xanh ngắt, những người phụ nữ tần tảo bên nong tằm, khung cửi. Kỹ thuật nuôi tằm cũng được đúc kết và ghi lại. Sách Hán Thư (Trung Quốc) chép: “Người Lạc Việt giỏi trồng dâu nuôi tằm. Trong một năm có hai mùa gieo lúa và tám mùa nuôi tằm”.

Khung cảnh dệt lụa của người thợ thủ công

Đất nước độc lập tự cường, rực rỡ như gấm như hoa

Trải qua nghìn năm Bắc thuộc, phải đến khi đất nước bước vào thời kỳ độc lập tự chủ, nghề lụa của người Việt mới có bước tiến vượt bậc. Năm 1040, thời Lý Thái Tông, Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Vua đã dạy cung nữ dệt được gấm vóc. Tháng ấy xuống chiếu phát hết gấm vóc của nước Tống ở trong kho ra để may áo ban cho các quan, từ ngũ phẩm trở lên thì áo bào bằng gấm, từ cửu phẩm trở lên thì áo bào bằng vóc, để tỏ là vua không dùng gấm vóc của nước Tống nữa”. Sau này, vua còn dùng vải lụa trong nước để thưởng cho các quan. Đó cũng là cách để dạy cho các quan ý thức về người Việt dùng hàng Việt.

Làng Nghi Tàm ven hồ Dâm Đàm (Hồ Tây, Hà Nội) hiện vẫn còn dấu tích của Công chúa Từ Hoa, con vua Lý Thần Tông cùng các cung nữ lập trại Tằm Tang. Bà còn khuyến khích dân trong vùng làm nghề, tạo nên một vùng đất nổi tiếng của kinh thành Thăng Long về nghề tằm tơ.

Đầu thế kỷ 15, Nguyễn Trãi viết trong Dư Địa Chí rằng: Ở nước ta ít nhất cũng có tới gần 20 làng, phường, huyện, hộ có nghề dệt các loại sản phẩm cao cấp như gấm, vóc, trừu, lụa, lĩnh, lượt, là, the, sa. Có những loại vải sợi nhỏ đẹp hơn cả lụa. Về sau chính người phương Bắc nhìn thấy lụa của nước ta cũng phải ngạc nhiên. Sứ nhà Nguyên là Từ Minh Thiện trong Thiên Nam hành ký đã ca ngợi Đại Việt có lụa sợi nhỏ ngũ sắc, có chiếu dệt gấm màu, có lĩnh ngũ sắc mềm mại bóng đẹp ở kinh đô ven Hồ Tây.

Những kén tơ sau 2 khi thu hoạch

Dấu ấn mở cõi với con đường tơ lụa trên biển

Lụa Việt gắn liền với thời kỳ Nam tiến mở mang bờ cõi của chúa Nguyễn. Thế kỷ 17, đô thị Hội An bên sông Thu Bồn, xưa là đất quận Nhật Nam, nổi tiếng bởi “đàn ông trồng dâu, đàn bà dệt lụa”.

Câu chuyện về Bà chúa Tằm Tang cuốn hút đời sau bởi giai thoại tình yêu giữa bà với chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan. Khi trở thành mẫu nghi thiên hạ, bà khuyến khích phát triển nghề tằm tang. Người dân nơi đây kết hợp kiến thức từ Đàng Ngoài với kinh nghiệm trồng dâu nuôi tằm của người Chăm Pa, bí quyết dệt lụa của người Minh Hương để tạo ra nhiều mặt hàng lụa chất lượng. Trong sách Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quý Đôn khen chất lượng lụa Xứ Quảng: “Các vóc, sa, lãnh, gấm, trừu cải hoa rất khéo” và “Người phủ Thăng, phủ Điện dệt được các thứ the, đoạn, lụa, là hoa hòe tinh xảo chẳng kém gì Quảng Đông”. Dưới thời Chúa Nguyễn, hàng năm tơ sống và lụa Xứ Quảng và Đàng Trong xuất khẩu sang các nước Đông Nam Á và phương Tây qua cảng Hội An. Nơi này trở thành trung tâm trung chuyển của con đường tơ lụa quốc tế, nối liền phương Đông với phương Tây trong thời kỳ Trung Đại của lịch sử.

Vươn ra thế giới

Với lịch sử nghìn năm, nhưng để Việt Nam ghi tên trên bản đồ tơ lụa thế giới hiện đại thì làng nghề truyền thống là chưa đủ, cần phải có sự chuyển mình lớn lao và Bảo Lộc chính là câu trả lời. Giờ đây, nói đến nghề lụa Việt Nam không thể không nhắc đến Bảo Lộc (Lâm Đồng), nơi được xem là “Thủ phủ tơ tằm” của Việt Nam. Bảo Lộc chỉ mới nổi lên từ những năm 70 của thế kỷ 20, nhưng nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi và quy hoạch tập trung của Nhà nước nên phát triển rất mạnh, hiện chiếm khoảng 70% giá trị sản lượng tơ tằm cả nước. Lụa Bảo Lộc đạt đến độ tinh xảo và có những giá trị độc đáo mang bản sắc riêng.

Hiện, Bảo Lộc có hơn 30 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh tơ lụa. Sản lượng hàng năm đạt

1.200 tấn tơ, 5 triệu mét lụa. Tơ lụa Bảo Lộc được tiêu thụ tron nước và xuất khẩu, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Riêng năm 2023, giá trị xuất khẩu tơ tằm thô đạt gần 72 triệu USD, cao nhất từ trước đến nay.

Có thể thấy, với vốn quý cổ truyền, vùng nguyên liệu mênh mông, chất lượng tơ tằm cao, cùng sự tài hoa của những người thợ cần cù, khéo léo đã tạo nên những tấm lụa đẹp đẽ, mang sắc thái văn hóa riêng của người Việt Nam.