Thu Hà
Trời tháng 4, Sài Gòn rộ mùa mận đỏ An Phước, cũng là lúc mấy chiếc xe bán mận chạy ngang dọc khắp xóm. Mối quen bán mận của nhà tôi là một anh người Khmer, quê ở Sóc Trăng. Anh nói tiếng Việt lơ lớ nhưng rất sõi “Mua mận ăn đi. Chứ vài bữa anh về quê ăn Tết.” Cái Tết mà anh nói, chính là lễ hội mừng năm mới Chol Chnam Thmay (hoặc Chaul Chnam Thmay, Choul Chnam Thmey, Chôl Chnăm Thmây), ngày Tết cổ truyền mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Khmer.

Từ lâu, cộng đồng dân tộc Khmer đã sinh sống và gắn bó với mảnh đất Nam Bộ. Theo thống kê, có gần 1,4 triệu người Khmer sống ở các tỉnh Đông Nam Bộ gồm Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, và đông đúc hơn cả ở các tỉnh Tây Nam Bộ như Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, An Giang… Họ hình thành các phum sóc (làng xã), sống chan hòa với các dân tộc cộng cư, lao động nông nghiệp cần cù, giữ gìn truyền thống thông qua các lễ hội trong năm. Tiêu biểu là Tết Chol Chnam Thmay, lễ hội mừng năm mới cho mọi sự khởi đầu thuận lợi và tốt lành.
Tết Chol Chnam Thmay sẽ diễn ra trong ba ngày của tháng Chett, theo lịch cổ truyền của người Khmer, tương ứng với tháng 4 Dương lịch từ ngày 14 đến ngày 16/4. Thời điểm mừng năm mới phản ánh sự gắn bó mật thiết giữa đời sống con người và thiên nhiên. Bởi tháng Chett là lúc đất trời chuyển giao từ mùa khô sang mùa mưa, thời điểm thích hợp để bắt đầu một vụ mùa mới. Đây cũng là lúc nông nhàn vì mùa vụ cũ đã kết thúc, bà con tận dụng khoảng giao mùa để nghỉ ngơi, vui chơi, sum họp gia đình, viếng chùa và thực hiện các nghi thức tín ngưỡng.

Vài ngày trước Tết, các gia đình Khmer sẽ quét dọn nhà cửa, chuẩn bị các thức bánh để ăn mừng lễ và cúng chùa. Quen thuộc nhất là bánh tét, bánh ít. Bên cạnh đó, còn có các thức bánh truyền thống của đồng bào Khmer như bánh gừng, bánh rế, bánh đậu xanh. Mỗi loại bánh gửi gắm ước nguyện của bà con trong năm mới. Bánh gừng (trong Khmer là Num-khơ-nhây) có hình dạng giống củ gừng nhiều nhánh, tượng trưng cho tình cảm gia đình bền chặt. Bánh được làm từ bột nếp trộn trứng gà, nhồi kỹ và tạo hình, sau đó đem chiên rồi áo qua lớp nước đường để bánh giòn và ngọt. Bánh đậu xanh (Num-kha-mos) tròn trịa, tượng trưng cho may mắn và suôn sẻ. Món bánh này có phần nhân béo ngậy và thơm lựng của gạo nếp, đậu xanh, dừa nạo, đường cát, mè và đậu phộng được xào cùng nhau, rồi áo qua lớp bột vàng ươm của gạo nếp, trứng gà và bột nghệ, đem chiên ngập trong dầu.
Nhiều nghi thức trang trọng sẽ diễn ra tại các chùa Phật giáo Khmer trong ba ngày Tết. Tại Sài Gòn, người Khmer sinh sống ở đây sẽ tham gia các nghi lễ tại hai ngôi chùa theo Phật giáo Nam Tông là chùa Candaransi (quận 3) và chùa Pothiwong (quận Tân Bình).
Ngày đầu tiên của Tết Chol Chnam Thmay cũng là thời khắc đón giao thừa. Tuy nhiên, giao thừa này lại khác với giao thừa của Tết Nguyên Đán. Giao thừa của người Khmer sẽ biến đổi theo từng năm, năm thì sáng sớm, năm thì buổi chiều hoặc buổi tối. Theo truyền thuyết của người Khmer, mỗi năm sẽ có một vị Chư thiên cai quản hạ giới, nên thời khắc giao thừa được tính vào lúc Chư thiên xuống trần. Lúc này, bà con Khmer tắm rửa sạch sẽ, mặc trang phục tươm tất, mang theo nhang đèn, tụ họp tại khuôn viên chùa để cùng các sư dâng hương lên Đức Phật, đón vị Chư thiên, cầu mong năm mới tốt lành và bình an.

Ngày Tết thứ hai với ý nghĩa tưởng nhớ tổ tiên và tích phước lành. Hai nghi thức chính là lễ dâng cơm cho sư và lễ đắp núi cát diễn ra tại chùa.
Theo Phật giáo Nam Tông, ngày thường, các vị sư ôm bát khất thực trong các phum sóc của bà con. Vào ngày Tết, mỗi gia đình sẽ tùy theo khả năng mà dâng cơm, hoa quả, bánh trái hoặc vật phẩm cho các sư vào sáng sớm và ban trưa. Nghi lễ thể hiện lòng thành kính đến các sư, Chư thiên và các vị thần. Để đáp lại tấm lòng của người dâng lễ, các sư sẽ tổ chức buổi lễ cầu kinh và dâng hương cho các linh hồn đã khuất trước khi dùng bữa.
Buổi chiều là nghi lễ đắp núi cát. Núi là hình tượng mang nhiều ý nghĩa. Là mùa màng bội thu, thóc lúa chất cao như núi. Là phước đức, phúc thọ của người lớn trong nhà vững vàng như núi. Là núi cách trở con người khỏi điều xấu, điều ác, hướng tới đời sống thiện lành. Để đắp núi cát, mỗi người sẽ mang cát vào chùa. Dưới sự hướng dẫn của các sư, mọi người cùng nhau đắp cát thành từng núi, số lượng núi có thể là 5, 7, hoặc 9 tùy theo từng chùa và địa phương. Dù số lượng núi khác nhau, nguyên tắc bố trí núi đều giống nhau, tức là một ngọn núi ở giữa tượng trưng cho vũ trụ, các ngọn núi bao xung quanh tượng trưng cho bốn phương tám hướng. Sau đó, núi cát sẽ được vẽ hình họa lên trên, cắm thêm hoa và nhang, rào lại bằng các thanh tre trúc, chuẩn bị làm lễ cho núi. Cát dùng đắp núi, được các Phật tử tặng lại cho chùa để dành vào việc tu bổ và xây dựng. Ở một số nơi, có thể thay cát bằng lúa hoặc thóc.

Ngày Tết thứ ba sẽ là lễ tắm Phật tại chùa và tắm cho ông bà, cha mẹ ở nhà. Tại chùa, các phật tử sẽ dùng nhành hoa nhúng vào xô nước thơm (nước ướp hương hoa từ hoa bưởi, hoa lài…) và vẩy lên các tượng Phật nhằm bày tỏ lòng thành kính đến Đức Phật. Bên cạnh đó, nghi thức còn mang ý nghĩa gột rửa điều không may trong năm cũ, đón may mắn bình an trong năm mới. Sau khi từ chùa trở về, con cháu trong nhà chuẩn bị phong tục tắm cho các bậc sinh thành. Ông bà, cha mẹ ngồi trên ghế trước sân nhà, nghe con cháu chúc sức khỏe năm mới, nói lời cảm ơn và cả những lời xin lỗi. Lần lượt từng người, múc gáo nước ướp các cánh hoa cúc, xối từ tóc rồi dùng khăn khô lau chân cho ông bà, cha mẹ.
Ba ngày Tết Chol Chnam Thmay, bên cạnh các nghi lễ trang nghiêm, còn là tiếng chuyện trò, hỏi han giữa những người đồng hương xa quê, là tiếng reo hò cổ vũ của khán giả trong các trò chơi dân gian, và tiếng lòng bình an của mỗi người trước thềm năm mới.
Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: