Bài: Nhà sử học Lê Văn Lan
Ảnh: Amachau

Khổng Tử – ông Tổ đạo Nho, được các triều đại xưa của Trung Hoa phong tặng hai chữ “Văn Tuyên” làm mỹ tự của tước hiệu. Do đó mà, “Văn Miếu” trở thành tên gọi của những nơi thờ phụng Khổng Tử.

Văn Miếu Hà Nội

Các tòa bái đường kì thú với mái ngói uốn cong, uy nghi ban thờ và tượng pháp, lộng lẫy và thâm sâu chữ cùng nghĩa trên các hoành phi, câu đối, thơm ngát khói hương của các nghi lễ thờ cúng trang trọng đã làm nên một phần đặc biệt của cảnh sắc mùa xuân nước Việt xưa, từ các Văn Miếu Đại Phúc (tỉnh Bắc Ninh), Văn Miếu Xích Đằng (tỉnh Hưng Yên), Văn Miếu Mao Điền (tỉnh Hải Dương), Văn Miếu Trấn Biên (tỉnh Đồng Nai), Văn Thánh Miếu (tỉnh Vĩnh Long)… cùng hai toà Văn Miếu ở kinh đô Thăng Long và Huế.

Giữa hàng chục Văn Miếu, thiết lập trên khắp 3 miền Bắc Trung, Nam của nước Việt ngày xưa như thế, có 4 toà ở Bắc Ninh, Hưng Yên, Thăng Long và Huế sở hữu thêm những báu vật đặc biệt là các tấm bia đá đề tên các vị Tiến sĩ.

Có tất cả 137 tấm “bia Tiến sĩ” ở những toà Văn Miếu ấy với khoảng 2.000 vị Tiến sĩ đã được nhận diện từ các báu vật ấy, trong số khoảng 3.000 Tiến sĩ (hoặc tương đương học vị Tiến sĩ) đã đỗ đạt, thành danh, qua các khoa thi Tiến sĩ, được các triều đại xưa tổ chức, bắt đầu từ năm 1075 – đời nhà Lý, đến năm 1919 – đời nhà Nguyễn. Đó là những người, 7 năm một lần – theo thể lệ đời Trần – Hồ (từ giữa thế kỷ 13 đến đầu thế kỷ 15) hoặc 3 năm một lần – theo thể lệ đời Lê – Nguyễn (từ giữa thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 20), vắt óc, dốc sức, trổ tài học hành chữ nghĩa thánh hiền của đạo Nho. Họ phải vượt qua 4 kì thi sát sao của vòng thi Hương ở các địa phương – để được nhận sự vẻ vang của danh hiệu (học vị) Hương cống (đời Lê) hoặc Cử nhân (đời Nguyễn).

Tiếp tục, theo thể lệ “Năm trước thi Hương, năm sau thi Hội”, những Hương cống hoặc Cử nhân ấy, phải tề tựu ở kinh đô Thăng Long – đời Lê, Huế – đời Nguyễn, để lại vắt óc, dốc sức, trổ tài một lần nữa ở vòng thi thứ 2 là thi Hội với 4 kì thi còn gay gắt hơn nữa, để vinh quang mà được nhận danh hiệu (học vị) Tiến sĩ.

Khuôn viên Văn Miếu Bắc Ninh

Cuối cùng, thường là vào dịp đất trời thì tươi tốt, lòng người thì hân hoan các vị Tiến sĩ ấy, thường chỉ chiếm 1/10, hoặc ít hơn thế nữa, trong số những người dự vòng thi Hội trước đấy được vời vào sân Rồng trong Cấm thành ở kinh đô, dự vòng thi Đình do chính nhà vua chủ trì: vừa ra đề thi, vừa duyệt kết quả – để xếp hạng các Tiến sĩ, xem ai được dự vào hạng Nhất, tức Tam Khôi (Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa), ai được hàng Nhì, tức Hoàng Giáp, ai ở hạng Ba, tức Đồng Tiến sĩ xuất thân. Thời nhà Nguyễn, còn có thêm hạng Tư nữa, là những người được ghi tên vào bảng phụ, tức Phó bảng.

Một mùa xuân đổi đời, bắt đầu từ mùa xuân chính thức đỗ đạt, các Tiến sĩ chuyển sang cuộc đời làm quan!

Khởi điểm của cuộc đời mới này, là các chức quan tham mưu hoặc văn thư, ở triều đình trung ương, học quan hoặc pháp quan ở các địa phương, với hàm Lục phẩm, Thất phẩm, trên 9 bậc là Cửu phẩm. Dần dà, nhờ tài năng, đức độ trong quan trường, họ được thăng lên hàng Ngũ phẩm, Tứ phẩm, với các chức vụ giám sát như Ngự sử, bang giao Chánh phó sứ, quản lý địa phương Tham chính, Hiến sát… Thậm chí, nếu giỏi giang và may mắn, thì họ còn có thể làm được tới chức Thượng thư, Thị lang (ngang cấp Bộ, Thứ trưởng ngày nay) ở triều đình, hoặc Tổng đốc, Tuần phủ (đứng đầu các địa phương), tương đương hàm Nhị phẩm, Tam phẩm và Nhất phẩm mà “Phò vua giúp nước”, đồng thời “Vinh thân phì gia”.

Một chiến lược nhất quán của các triều đại nước Việt xưa đã được thể hiện và thực hiện đặc sắc qua việc liên kết chuỗi liên quan giữa mùa xuân, thi cử và Văn Miếu với nền tảng tư tưởng là coi trọng, tìm kiếm và sử dụng nhân tài.

Tấm bia đá ở Văn Thánh Miếu (Vĩnh Long)

Lời được khắc ghi trên tấm bia Tiến sĩ khoa thi năm 1448 hiện vẫn còn ở Văn Miếu Thăng Long – có thể xem như tuyên ngôn rành rẽ nhất về đường lối và tư tưởng này:

“Sự lớn lao trong nền chính trị của các bậc đế vương, không gì quan trọng bằng việc trọng dụng nhân tài. Việc cai trị mà không lấy nhân tài làm gốc thì đều phải coi là cầu thả”.

Về mặt biện pháp thì rõ ràng nhất là lời trong Chiếu chỉ viết năm 1434 của vua Lê Thái Tông: “Muốn có nhân tài, trước hết phải chọn người có học. Phép chọn người có học, thì, thi cử là đầu”.

Người xưa thường tổ chức thi cử chọn bậc hiền tài vào mùa xuân còn ngày nay, mỗi dịp Tết Nguyên đán, dòng người nô nức đổ về các khu Văn Miếu vừa để thể hiện sự kính lễ với cổ nhân vừa để cầu may, cầu tài cho con đường học vấn rạng danh.

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: