Bài: Phạm Minh Quân
Ảnh: Nguyễn Trọng Cung
Có một miền đất, khi mùa gặt về, cả không gian bừng lên sắc vàng rực rỡ, tiếng cười chan hòa cùng mùi thơm của rơm mới, của gạo mới. Đó là lời mời gọi của quê lúa Thái Bình xưa, nay thuộc Hưng Yên, dành cho bất cứ ai khao khát một chuyến đi chạm đến hồn cốt văn minh lúa nước.

Khi ánh nắng thu dịu vàng trải xuống cánh đồng, đồng bằng Bắc Bộ vang lên nhịp rộn ràng của vụ mùa chín tới. Ở vùng đất này, lúa không chỉ là cây trồng nuôi sống bao thế hệ, mà còn là linh hồn của miền quê trù phú. Mỗi mùa gặt, đồng ruộng lại khoác lên tấm áo vàng óng, rung rinh trong gió, chào đón bước chân người trở về.
Từ thuở cha ông mở đất, tỉnh Thái Bình cũ đã là điểm hội tụ của nhiều luồng cư dân, mang sắc thái văn hóa từ khắp vùng miền và được bản địa hóa qua thời gian. Với truyền thống hiếu học và văn hiến rực rỡ, vùng quê này không chỉ giỏi thâm canh lúa nước mà còn nổi tiếng với các nghề thủ công tinh xảo. Là cửa ngõ hướng ra biển Đông, nơi đây từng được sử sách ca ngợi là “quê lúa, đất nghề”, “kho người, kho của”, góp sức người, sức của cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước qua các thời kỳ.
Người dân ở đây canh tác 2 vụ chính: vụ Xuân và vụ Mùa. Nước từ những con sông mẹ như sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý, sông Hóa chảy về nuôi đồng, mang phù sa bồi đắp. Tháng 6, tháng 10, mùa vàng trở lại. Nhìn từ triền đê, đồng lúa trải dài như tấm thảm óng ánh, uốn lượn theo bờ mương và con đường làng. Ở Đồng Châu, thửa ruộng chia đều tăm tắp như ô bàn cờ; ở Đông Hưng, sóng lúa xanh mướt chạy dài bên dòng Tiên Hưng. Xa hơn là nhà thờ Bác Trạch (hay còn gọi là Đền thánh Đức Mẹ Mân Côi) trầm mặc bên sông Lân, tiếng chuông ngân hòa cùng tiếng gió lùa qua bông lúa.

Mùa gặt rộn ràng như một hội làng. Tiếng máy gặt xen tiếng cười nói, bóng áo nâu sạm nắng thoăn thoắt gom lúa. Trên những xe thồ chất đầy thóc, hạt vàng trôi theo dòng về sân phơi, nơi mùi thơm của gạo mới quyện hương rơm và đất đồng. Bữa cơm ngày mùa với bát cơm trắng dẻo bên bát canh rau, khúc cá kho đã gắn với ký ức bao thế hệ, trở thành chất quê không nơi phố thị nào có được.
Văn minh lúa nước không chỉ hiện diện trong ruộng đồng, mà còn sống động trong đời sống văn hóa và tín ngưỡng. Từ xa xưa, mỗi làng đều có đình làng, là nơi tổ chức lễ hội tôn vinh thần thành hoàng, các anh hùng, hoặc cầu mùa, hòa quyện cùng các hình thức diễn xướng dân gian. Nhiều lễ hội đặc sắc vẫn còn lưu truyền: lễ hội chùa Keo xuân thu nhị kỳ với âm hưởng vùng sông nước; lễ hội làng Quang Lang với múa ông Đùng bà Đà; lễ hội đền Hét với trò vật cầu; lễ hội Sáo Đền với tục thả diều… Đây là dịp tái hiện cuộc sống nông nghiệp, đồng thời phô diễn nét đẹp làng quê qua thi nấu cơm, làm bánh, pháo đất, đấu vật.
Trong tiếng trống hội, những điệu múa cổ như múa giáo cờ giáo quạt, múa bát dật, múa chèo đò, múa rồng… vẫn được lưu giữ. Đó là ký ức cộng đồng, là niềm tự hào về một vùng quê cởi mở, phóng khoáng, nơi con người vừa kiên cường chống giặc, vừa hăng say lao động sản xuất, vừa biết thưởng thức và sáng tạo nghệ thuật.

Đồng ruộng xưa đã khác xưa. Máy móc giúp giảm sức người, giống lúa mới cho năng suất cao nhưng người nông dân vẫn giữ nhịp canh tác thuận theo đất trời, giữ hồn cốt mùa vụ. Với du khách, về miền quê lúa là tìm thấy khoảnh khắc bình yên: sáng sớm nghe tiếng gà gáy, hít hà mùi lúa chín, chiều muộn đứng trên triền đê nhìn mặt trời đỏ rực khuất sau hàng tre, bóng người gặt lúa in dài trên nền đồng vàng bao la.
Khúc hát mùa vàng vẫn hằng ngân nga, nối quá khứ với hiện tại, gói trong từng hạt lúa sự bền bỉ, tình đất và hồn người vùng châu thổ. Giữa nhịp sống hiện đại, mùa gặt nơi đây vẫn là lời mời gọi nồng hậu gửi tới bất cứ ai ghé qua, để một lần được chạm vào mạch sống của văn minh lúa nước Việt Nam.
Xem thêm bài viết liên quan: