Bài VÂN ANH
Ảnh INTERNET
Từ Edvaid Munch, Gustav Klimt cho đến Vincent Van Gogh và Edwaid Hoppei, những tác phẩm hội họa của họ không chỉ dừng lại tiên khung gỗ. Màn ảnh iộng của môn nghệ thuật thứ 7 đã một lần nữa tái hiện để tôn vinh chúng.

NHỮNG BÓNG HÌNH CỦA HỘI HỌA
Khoảnh khắc nhân vật của Leonardo DiCaprio ôm người vợ từ phía sau (do nữ diễn viên Michelle Williams thủ vai) trong Shutter Island (Đảo kinh hoàng), đều khiến người yêu nghệ thuật có thể nhận thấy bóng dáng bức họa nổi tiếng The Kiss (Nụ hôn) của họa sĩ người Áo Gustav Klimt. The Kiss, đúng như tên gọi của nó, thể hiện câu chuyện tình giữa chính Klimt và nàng Emilie Flöge. Bức tranh vượt ra khỏi những quy chuẩn của hội họa đương đại, để trở thành một trong những tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa tượng trưng, lưu lại dấu ấn đậm nét trong thế giới nghệ thuật, như một biểu hiện độc đáo về cảm xúc lãng mạn và sự khao khát trong tình yêu. Và chính những cảm xúc ấy đã tạo nên sức ảnh hưởng thẩm mỹ mạnh mẽ lên điện ảnh như vậy.
Xem kỹ hơn trong Shutter Island của đạo diễn Martin Scorsese, ta bắt gặp loạt khoảnh khắc ấn tượng, từ bộ váy vàng in hoa của nhân vật nữ chính đứng giữa nền màu vàng xanh mờ ảo, cho đến biểu cảm giao hòa giữa tuyệt vọng và khao khát của Leonardo DiCaprio. Tất cả đã xóa nhòa ranh giới vô hình giữa điện ảnh và hội họa, giữa hai ngôn ngữ nghệ thuật của tĩnh và động. Đây là sự cộng hưởng tinh hoa của một tác phẩm của kinh đô phim ảnh Hollywood với nền mỹ thuật cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 ở châu Âu.

Kỳ thực, hội họa nói riêng và nghệ thuật nói chung luôn có sự liên đới đậm nét với những tác phẩm điện ảnh. Bởi suy cho cùng, phim ảnh chính là diễn tiến tự nhiên của những sản phẩm văn hóa, song hành cùng tiến bộ của khoa học kỹ thuật và xuất phát từ khao khát kể câu chuyện hình ảnh của người nghệ sĩ. Nếu như hội họa mang đến những cảm xúc và diễn giải cá nhân, từ cả người nghệ sĩ và người thưởng thức, thì lợi thế của phim ảnh là sự kết hợp của hình ảnh chuyển động và âm thanh. Cũng vì thế, nhiều nhà làm phim chẳng ngần ngại khi thừa nhận sự ảnh hưởng của hội họa đến cảm hứng sáng tạo của mình.
Tìm lại những tác phẩm điện ảnh từ cổ chí kim, có lẽ The Scream (Tiếng thét) của danh họa Na Uy Edvard Munch là một trong những bức họa gây ảnh hưởng và xuất hiện nhiều nhất. Là tác phẩm đưa trường phái Biểu hiện (Expressionism) đến tầm cao mới, The Scream phác họa một khuôn mặt (có vẻ như) đang gào thét giữa một khung nền phẳng lặng và yên bình đến khó tin. Những cảm xúc tưởng như bị giam cầm trong sự bất động của bức tranh, bỗng sống động hơn bao giờ hết, từ cái cách Edvard Munch khắc họa bối cảnh xung quanh nhân vật của mình với những méo mó biến thể, tựa một làn sóng đang chực chờ nhấn chìm con người hoảng hốt đến cùng cực. The Scream luôn là chủ đề được bàn luận sôi nổi trong các diễn đàn mỹ thuật hiện đại, những đặc trưng màu sắc và đường nét thu hút trong tranh như nguồn cảm hứng dạt dào, khiến nhiều nhà làm phim không thể làm ngơ. Từ chiếc mặt nạ đáng sợ trong loạt phim kinh dị Scream của đạo diễn Wes Craven, cho đến những cảnh quay chậm nhấn sâu vào biểu cảm khuôn mặt của diễn viên trong loạt phim nổi tiếng Euphoria (Hưng phấn) trên HBO, người xem ít nhiều tìm thấy bóng dáng những cung bậc cảm xúc của nhân vật trong phim, mà ngôn từ không thể gọi tên. Đó có thể là sợ hãi, đau đớn, mơ màng và giận dữ, thật vô định nhưng tuyệt đẹp.

TỪ NGHỆ THUẬT ĐẾN ĐIỆN ẢNH
Tính độc đáo của chủ nghĩa Biểu hiện trong hội họa không phải chờ đến Euphoria để tỏa sáng. Cũng như nhân vật chính trong The Scream của Edvard Munch, chủ nghĩa Biểu hiện của điện ảnh Đức vào những năm 1920 đào sâu cách kể chuyện bằng hình ảnh nhằm diễn tả cuộc xung đột nội tâm, những âu lo trong bối cảnh tụt dốc của nền kinh tế và xã hội Đức. Không chỉ được thể hiện trong mạch chuyện phim, chủ nghĩa Biểu hiện cũng được các đạo diễn đại tài bấy giờ thể hiện qua bối cảnh, sắp đặt ánh sáng, góc máy quay và diễn xuất của các diễn viên.

Chủ nghĩa Biểu hiện là cầu nối trực diện giữa hội họa và điện ảnh, nhưng cũng có những tác phẩm điện ảnh tập trung vào những bức họa đơn lẻ, mà không phải người xem nào cũng có thể lập tức gọi tên. A Clockwork Orange (Cỗ máy con người) (1971) của đạo diễn Stanley Kubrick không chỉ dựa trên tác phẩm văn học của nhà văn Anthony Burgess, khi khám phá bản dạng con người từ bối cảnh nhà tù. Một cảnh quay khắc họa những phạm nhân bước đi theo vòng tròn, dưới những bức tường đủ để gợi nhớ bức tranh Prisoners Exercising (Vòng tù nhân) của danh họa Vincent Van Gogh. Với những tái hiện sống động bằng ngôn ngữ điện ảnh, đạo diễn Stanley Kubrick nhấn mạnh sự tù túng của trại giam, nơi tính nhân bản bị nhấn chìm dưới bức tường bê tông.

Không quá khắc nghiệt như những bối cảnh trong A Clockwork Orange, bộ phim Pennies from Heaven (Vận may) (1981) của đạo diễn Herbert Ross chọn tái hiện một hình ảnh cô đơn hiện sinh trong những nét vẽ nổi tiếng của Edward Hopper với tác phẩm Nighthawks (1942). Một cặp đôi ngồi cạnh nhau bên quầy bar vắng vẻ, họ có vẻ rất gần gũi, nhưng bối cảnh xung quanh lại mang đến cảm giác xa cách khó hiểu. Hopper muốn diễn tả sự trớ trêu của những xa cách về cảm xúc của con người giữa lòng phố thị, qua việc tái hiện lại chính tác phẩm hội họa này, với cùng một cách sử dụng ánh sáng, sự phản chiếu của gam màu sáng tối, ánh đèn từ phía bên trong cửa hàng, cảnh phim Pennies from Heaven một lần nữa khẳng định điện ảnh chưa bao giờ là “án tử” của hội họa. Trái lại, điện ảnh, với ngôn ngữ kể chuyện sinh động của mình, hoàn toàn có thể thổi vào hội họa một hơi thở mới, mang đến chiều không gian mới, để tiếp tục giao tiếp với người xem bằng những thông điệp nhân sinh của mình.