Đỗ Phấn
Chợ được xếp vào một trong những hình thái sinh hoạt cộng đồng sớm bậc nhất của nhân loại. Nó chắc hẳn phải được khởi đầu từ thời kì săn bắt hái lượm của loài người, khi người tiền sử bắt đầu có nhu cầu trao đổi sản vật săn bắt, hái lượm được. Dấu ấn này còn được lưu giữ qua những hiện vật khảo cổ tiền tệ bằng vỏ ốc từ thời nguyên thủy.
Sử Việt không ghi chép khoảng thời gian ra đời của hình thái chợ trên đất nước mình nhưng nó được nhắc đến trong truyền thuyết từ rất sớm. Đó là việc bà mẹ của Thánh Gióng một hôm đi chợ về qua cánh đồng phát hiện ra một bàn chân khổng lồ. Bà ướm chân mình vào vết chân ấy và hoài thai sinh ra Thánh Gióng. Tất nhiên đó chỉ là dấu ấn xa xưa được nhắc đến trong truyền thuyết mà thôi.

Lẽ dĩ nhiên chợ quê được hình thành sớm hơn cả. Thậm chí nhiều phiên chợ quê đã phát triển, mở mang làm nên cả một thành phố. Hà Nội là một ví dụ như thế. Từ xa xưa đã có tên gọi là Kẻ Chợ. Chợ quê không đơn thuần chỉ là nơi mua bán, đổi chác. Nó còn là một nét sinh hoạt cộng đồng nhằm thỏa mãn nhu cầu gặp gỡ, trao duyên. Miền xuôi có “Chợ huyện một tháng sáu phiên/ Gặp cô hàng xén kết duyên châu trần”(Ca dao cổ). Miền núi có khá nhiều “Chợ tình”. Là nơi hẹn hò gặp gỡ của những cặp tình nhân mọi lứa tuổi. Thực ra chữ “Chợ tình” cũng là do người dưới xuôi gọi thế mà thôi.
Hội họa thời kì đầu tiên của nền mỹ thuật hàn lâm Việt Nam đã thấy xuất hiện những tác phẩm vẽ quang cảnh sinh hoạt chợ quê. Các họa sĩ Trường cao đẳng mỹ thuật Đông Dương đã sớm phát hiện ra vẻ đẹp hội họa của những phiên chợ quê ngay từ đầu thế kỉ trước. Gần 100 năm hội họa Việt Nam đã có không biết bao nhiêu tác phẩm để đời của nhiều thế hệ vẽ quang cảnh chợ quê. Có lúc là trực họa, cũng có khi là những tác phẩm dài hơi với bố cục và hòa sắc một cách hàn lâm. Thực ra thì những ông thầy người Pháp của Trường cao đẳng mỹ thuật Đông Dương mới là những người có công đầu trong việc phát hiện ra nét đẹp chợ quê Việt Nam. Ngày nay, ta vẫn có thể còn được chiêm ngưỡng những tác phẩm của V.Tardieu, J.Inguimberti, A. Ayme… vẽ chợ quê Việt Nam từ hồi đầu thế kỉ trước. Và dĩ nhiên, học trò từ những khóa học đầu tiên đã có những bức vẽ chợ quê đặc sắc. Có thể kể đến các họa sĩ Nguyễn Phan Chánh, Phạm Hậu, Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn…

Chợ quê Việt họp trên mọi vùng đất. Cứ ở đâu có làng mạc và cư dân sinh sống đều có sự hiện diện của chợ. Ít thì vài làng họp một chợ. Nhiều hơn có thể mỗi làng có một chợ. Qui mô lớn hơn có chợ huyện. Lớn nữa là chợ tỉnh. Chợ họp tùy theo địa lí vùng miền. Vùng sông nước có chợ họp trên sông, bằng thuyền. Vùng ven sông có chợ bán mua những vật phẩm được vận tải bằng đường thủy. Vùng cao họp chợ trên đồi núi.
Chợ quê miền xuôi được sắp xếp trật tự ngành hàng từ rất sớm. Để tránh cảnh“Hàng thịt nguýt hàng cá” như tục ngữ xa xưa từng nhắc nhở. Hàng hóa được phân chia thành khu vực khác nhau, tiện cho người mua nhớ chỗ và cũng là đảm bảo vệ sinh trật tự. Những thực phẩm tươi sống như gà vịt, cá tôm, lợn giống thường được sắp xếp vào khoảnh đất rộng không mái che ở cuối chợ. Tiếp đến là những hàng rau cỏ, củ quả. Hàng ăn uống thường bố trí dưới mái che trong giữa chợ. Khu vực dành riêng cho hàng hóa công nghệ phẩm thường nằm cách xa những khu vực này. Đó là quần áo, vải vóc, nồi niêu, xoong chảo, dao thớt… Cổng chợ thường có những lò rèn đỏ lửa suốt phiên. Người ta mua nông cụ rèn bằng sắt ở đấy, cũng có khi chỉ là sửa chữa vài nông cụ bị hỏng. Gần đấy là dãy hàng lương thực: thóc, gạo, ngô, khoai, sắn, hạt đậu, hạt lạc, hạt vừng và những món hàng đã chế biến từ lương thực như bún, miến, bánh đa…
Họa sĩ vẽ chợ miền xuôi có rất nhiều lựa chọn về mặt hình ảnh cho tác phẩm của mình. Có khi chỉ là những trích đoạn bán mua một mặt hàng cụ thể. Cũng có lúc là toàn cảnh một góc chợ với những hàng hóa đặc thù. Rộng hơn nữa là quang cảnh của cả ngôi chợ với đủ đầy lều lán, mặt hàng và khách đi chợ chen vai thích cánh. Thế giới màu sắc và hình ảnh vô cùng phong phú ở những ngôi chợ là những gợi ý rất thuận tiện cho việc xây dựng tác phẩm.

Chợ miền núi lại có những nét đặc sắc, khác lạ. Điều đặc biệt nhất là con mắt họa sĩ được thỏa sức ngắm nhìn những bảng hòa sắc rực rỡ của áo váy nhiều dân tộc thiểu số. Những sinh hoạt mang tính đặc thù của dân tộc miền núi cũng không đâu phong phú bằng ở chợ. Ở đây còn bắt gặp hình ảnh những công cụ đặc thù của cư dân vùng miền. Chiếc cày chìa vôi đã “tuyệt chủng” từ hơn nửa thế kỉ trước dưới xuôi. Chiếc bừa răng bằng tre dùng để bừa ruộng bậc thang… Rất nhiều thứ khác lạ với miền xuôi kể cả những quán hàng ăn uống. Chảo thắng cố khổng lồ bốc khói nghi ngút lơ mơ hiện ra vài gương mặt đẫm rượu nói cười hỉ hả. Dãy hàng bán rượu ngô là những chiếc can nhựa xếp thành hàng dài trên con đường quanh chợ. Người mua bao giờ cũng uống thử lưng bát trước khi trả tiền. Khu vực buộc ngựa chính là cái “bãi gửi xe” của đồng bào thiểu số. Họ hạ những bó củi, gùi ngô từ trên lưng ngựa xuống chợ buổi sáng. Buổi chiều là các bà, các cô vắt ông chồng say mèm lên lưng ngựa dắt về nhà.
Một trong những hình ảnh thu hút sự quan sát của họa sĩ nhất chính là chân dung của những đồng bào thiểu số. Cách cắt tóc, cạo đầu, buộc tóc của họ là những yếu tố tạo hình hấp dẫn, kèm theo những đồ trang sức riêng biệt cho từng dân tộc luôn là mục tiêu nghiên cứu lâu dài của giới tạo hình.
Chợ không chỉ là chợ mà đã trở thành nơi hàm chứa những nét văn hóa độc đáo của các vùng miền.
Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: