Bài: Nhà sử học Lê Văn Lan
Ảnh: Bá Ngọc

200 triệu năm trước, những vận động tạo sơn đã làm nhô đội lên một vùng núi đá có diện tích khoảng 7.000ha với 3 ngọn: ở giữa là ngọn có đỉnh xòe như cái tán mang tên là Tản Viên, cao 1.220m; ngọn phía đông, tục gọi là đỉnh Ngọc Hoa hay là núi Bà, cao 1.120m; ngọn phía tây là đỉnh Vua hay là đỉnh Ông, cao nhất: 1.281m.

Lễ hội đền Và

Gộp 3 ngọn thành một vùng núi được dân gian gọi tên phổ thông là Ba Vì, còn “tên chữ” (tiếng Hán Việt, viết trong sách vở), thì đó là Tản Viên.

Tác giả Lê Đại Cương, 200 năm trước, đã viết trong sách Bắc Thành dư địa chí về Ba Vì – Tản Viên, lời nhận định nổi tiếng: “ Làm trấn sơn cho cả nước”.

Đấy là dáng và thế của núi, đồ sộ, uy nghiêm, đứng cao từ và trên rìa tây bắc đồng bằng châu thổ sông Hồng, mà phủ bóng linh thiêng lên “Chiếc nôi của lịch sử và văn minh nước Việt” này.   

Còn, từ trung tâm của vùng tam giác châu thổ, đặc biệt là từ kinh đô Thăng Long – thủ đô Hà Nội mà hướng cái nhìn về và lên núi, thì hai “cái Nhất” đã được khẳng định:

Nhất cao là Núi Ba Vì
Nhất thanh nhất lịch, kinh kỳ Thăng Long!

Thần Núi Ba Vì – Tản Viên xuất hiện và hiển linh cùng với những “cái Nhất” ấy.

Đất có thổ công, sông có hà bá, vạn vật hữu linh vốn là quan niệm cổ truyền trong tư duy và tín ngưỡng của người Việt Nam khi cho rằng mọi vật đều có thần linh cai quản. Cho nên 3 lớp thần linh đã luôn ẩn hiện trong mây gió và đá núi, cỏ cây của Ba Vì – Tản Viên mà tôn chiều cao cho núi, tạo độ rắn chắc cho đá, sai khiến muôn loài và cảnh vật quanh núi, đặc biệt là “tác oai tác phúc” cho lớp lớp thế hệ cư dân luôn lấy núi làm đích ngưỡng vọng.

Đền Bắc Cung trong Tứ cung xứ Đoài (huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc)

Thoạt kì thuỷ, Thần thoại là nơi chỗ thần núi Ba Vì – Tản Viên trú ngụ và hiển linh. Mà, thần thoại ở mọi vùng miền và dân tộc luôn đề cao những gì khổng lồ, kì vỹ. Vì thế, thần núi Ba Vì – Tản Viên, ở lớp nguyên thuỷ của lịch sử và xã hội người Việt là vị thần có hình hài thì to lớn, sức mạnh thì vô biên.

Một sự tích được xếp vào hàng sáng tác hay nhất của người Việt nguyên thuỷ kể rằng: Vào một cơn đại hồng thuỷ, thần núi Ba Vì – Tản Viên đã đi gánh đất đắp bờ chặn dòng. Chỉ là vài hòn đất “lọt sọt, đứt quai” thôi, cũng đã thành những quả đồi sừng sững, về sau có tên là đồi Đùm và đồi Vai, trong câu cổ ngữ: Đồi Đùm đứt quai, đồi Vai lọt sọt! Còn sau một bữa ăn, những hạt cơm rơi vãi của thần cũng đủ làm nên một bãi đá ngổn ngang dưới ngọn núi Chẹ, bây giờ vẫn được gọi là bãi Cơm Rơi ở gần ngay chân núi chủ.

Sau lớp tạo thần bằng Thần thoại ở thời tiền sử, đến thời sơ sử, thần núi Ba Vì – Tản Viên đã được biến hoá thành “nhân thần”, một vị thần – người, gắn bó cùng lịch sử thời dựng nước với các vua Hùng của người Lạc Việt ở những thế kỷ cuối cùng trước Công nguyên, bằng những thủ pháp của Truyền thuyết.

Ở lớp tạo thần thứ 2 này, thần núi vẫn có những khả năng siêu phàm, nhưng đã “dấn thân” vào 2 trường hợp diệu kì có liên quan tới các vua Hùng. Và, 2 thành tích cũng là thần tích đã được tạo lập.

Thứ nhất là làm rể của vua Hùng nhưng phải tranh chấp với Thuỷ Tinh. Với những lễ vật ưu thắng của thế giới trên cạn, thần núi hay Sơn Tinh đã vượt qua Thuỷ Tinh, cưới được nàng công chúa xinh đẹp, đưa về núi Ba Vì – Tản Viên. Nhưng sau đấy gặp phải những cơn lũ lụt do Thuỷ Tinh “dâng nước đánh ghen”, thần đã trở thành cứu tinh của đất nước và cư dân vua Hùng, bằng kì tích đắp đê chống lụt, đánh bại Thuỷ Tinh. Kì tích này gắn liền với hình tượng của núi Ba Vì – Tản Viên từ chỗ vốn là 3 ngọn dăng ngang nhưng đã được thần nâng cao theo chiều thẳng đứng, thành 3 tầng, tức “Ba Vì”.

Tượng Tản Viên sơn thánh tại đền Bắc Cung

Kì tích thứ 2 là thần trở thành bộ tướng của vua Hùng trong “cuộc chiến tranh Hùng – Thục” ở thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, giữa 2 bộ tộc Tây Âu (của Thục Vương) và Lạc Việt (của Hùng Vương). Giúp Hùng Vương nhiều lần đánh bại Thục Vương trong những trận mở đầu cuộc chiến, nhưng cuối cùng, khi Tây Âu giành thắng thế trước Lạc Việt (để lập ra nước Âu Lạc vào và từ năm 258 trước Công nguyên – theo sử sách cũ) thì thần đã trở thành một “Tiên phong Đạo cốt”, đem tư tưởng hiền hòa của người Việt mà khuyên Hùng Vương nhường ngôi cho Thục Vương, để rồi cùng với thần “ngao du sơn thuỷ”, “vui thú yên hà” mà bàng bạc ẩn hiện giữa mây trời, sông núi nước Việt từ đó.

Còn có một lớp tạo thần thứ 3 nữa, từ ấy đến nay, ở chính vào thời các triều đại phong kiến nước Việt, bằng Cổ tích của các thế kỉ thuộc thiên niên kỉ thứ 2 sau Công nguyên, với ảnh hưởng của những phép lạ Đạo giáo và “Ngũ thường” (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) của Nho giáo dành cho thần núi Ba Vì – Tản Viên. Một bài ca dân gian cổ truyền gồm 466 câu, với giọng văn gần gũi cùng ngôn ngữ tiếng Việt thế kỉ 17, trùng hợp với những câu chuyện truyền miệng sưu tầm được từ nhiều ngôi làng cổ quanh vùng chân núi Ba Vì – Tản Viên. Đó là những ca từ được trình diễn trong các lễ hội “Hát Dô”, xưa 36 năm mới mở một lần ở vùng Quốc Oai, “Hát Ca trù” ở vùng Phúc Thọ… xưa, đã mang đến cho thần núi Ba Vì – Tản Viên, ở lớp tạo thần cuối cùng này, hình thù và hình tượng “người trần”: có mẹ là bà Đinh Thị Đen, có 2 em họ con nhà chú là Cao Sơn và Quý Minh, có cả họ tên đầy đủ là Nguyễn Tuấn. Thần đã hoá thân, khi thì thành học trò, lúc lại thành tiều phu, có tính nhân ái, hiếu thảo, nhờ được vị tiên cho quyển “sách ước” và cây gậy phép, thần đã trở thành vị “Tiên giữa đời”, vân du khắp miền, cứu nhân độ thế, giúp đỡ không chỉ cho loài người mà còn cả các loài cỏ cây muông thú, đặc biệt là dạy dỗ cho nhân dân làm ăn, sinh sống và cả múa hát.

Vậy là, với 3 lớp tạo thần bằng Thần thoại, Truyền thuyết và Cổ tích nhưng đều có chung danh hiệu là Sơn Tinh, thần núi Ba Vì – Tản Viên đã là vị thần đứng đầu trên thần điện nước Việt trong “Tứ bất tử” (gồm: Sơn Tinh, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Từ Đạo Hạnh hoặc Liễu Hạnh).

Đã thống kê được 116 nơi thờ thần ở quanh chân núi Ba Vì – Tản Viên và nhiều nơi khác trên toàn cõi nước Việt. Thần có nơi trú ngụ chính là 3 ngôi đền thiêng: Thượng, Trung, Hạ ở trên đỉnh, giữa lưng chừng và gần chân núi Ba Vì – Tản Viên.  Thần còn có 4 toà cung điện, trấn giữ bốn chính phương đông, tây, nam, bắc quanh chân núi Ba Vì. Đặc biệt uy nghiêm, khang trang mà cổ kính là ngôi Đền Và (thuộc thị xã Sơn Tây). Những ngôi đền này chính là điểm đến tâm linh nổi tiếng thu hút đông du khách mỗi dịp xuân về.

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: