Bài: NGUYỆT ANH
Ảnh: TRƯƠNG VỮNG

Giáp Tết, nếu có dịp đến làng Sình, bạn sẽ thích thú khi được chứng kiến không khí khẩn trương của nhiều hộ dân đang hoàn tất công đoạn cuối cùng để cho ra đời những bức tranh cúng ngày 30 Tết

Đã hơn 500 năm qua, làng Sình được biết đến với nghề chuyên làm tranh giấy, chủ yếu là tranh tín ngưỡng. Tranh làng Sình được dùng để cúng trong dịp ngày rằm, mùng 1, và đặc biệt là ngày 30 Tết. Tranh Sình thường được cúng cùng với tiền giấy, vàng mã rồi sau đó đốt đi. Theo quan niệm của nhân dân, dùng tranh thờ cúng sẽ mang lại nhiều may mắn trong cuộc sống. Vì thế, tranh làng Sình không chỉ cung cấp riêng cho thị trường Huế mà còn phục vụ nhu cầu nhân dân ở Đà Nẵng, Quảng Trị, Quảng Nam… đặt hàng mua tranh sử dụng trong dịp Tết.

Tranh làng Sinh được làm qua nhiều công đoạn đòi hỏi kỹ thuật công phu và được in trên bản mộc gỗ khắc tinh xảo. Tranh Sình có nhiều loại, kích thước tùy thuộc vào khổ giấy dó. Giấy dó cổ truyền có khổ 25 cm x 70 cm, được xén thành cỡ pha đôi (25 cm x 35 cm), pha ba (25 cm x 23 cm), pha tư (25 cm x 17 cm). Nếu tranh khổ lớn, khi in, người thợ sẽ đặt bản khắc nằm ngửa dưới đất, dùng một chiếc phết (là mảnh vỏ dừa khô đập dập một đầu), quét màu đen lên trên ván in. Sau đó phủ giấy lên trên, dùng miếng xơ mướp xoa đều cho ăn màu rồi mới bóc giấy. Nếu tranh khổ nhỏ, người thợ sẽ đặt giấy từng tập xuống dưới rồi lấy ván in dập lên. Bản in đen phải chờ cho khô mới đem tô màu. Bản khắc của tranh được làm từ gỗ mít. Công đoạn tô màu cho tranh đòi hỏi sự tỉ mỉ, nhanh nhạy của người thợ tranh làng Sình.

Vì tranh Sình chủ yếu phục vụ tín ngưỡng nên đường nét và bố cục của tranh thường toát lên vẻ hồn nhiên, bình dị, lạc quan, cộng thêm những nét hồn hậu, chất phác của người nông dân. Có khoảng năm mươi đề tài tranh, chủ yếu phản ánh tín ngưỡng cổ xưa. Ngoài ra, còn có tranh Tố Nữ, tranh tả cảnh sinh hoạt xã hội… Thể loại tranh cúng rất đa dạng: từ tranh nhân vật như Tượng Bà (tượng bà chia thành ba loại: tượng đế, tượng chùa, và tượng ngang); tranh con ảnh (gồm hai loại: ảnh xiêm vẽ hình đàn ông đàn bà; ảnh phền vẽ bé, trai bé gái); tranh đồ vật như áo ông, áo bà, áo binh, các loại cung tên khí dụng; tranh súc vật chủ yếu là trâu, bò, heo, ngựa. Một số tranh như con ảnh hay còn gọi là tờ thế mạng được dùng để đốt thế mạng cho người sống. Tương ứng với bao nhiêu người lớn, trẻ nhỏ, nam, nữ trong gia đình, mỗi nhà sẽ mua tương ứng với bấy nhiêu con ảnh để cúng trong đêm 30 rồi đốt đi. Nhà có nuôi gia súc thì cũng mua tranh ứng với con vật đó để đốt để cầu cho con vật luôn khoẻ mạnh, không bị bệnh tật.

Cuối năm là những ngày bận rộn nhất với mọi người dân. Đến làng Sình vào những ngày này, bạn sẽ được chứng kiến không khí làm việc hối hả, khẩn trương của mọi lứa tuổi. Người lớn làm các công đoạn chính: pha màu, chà tranh trên mộc bản, phết màu. Trẻ nhỏ thì lấy tranh ra phơi nắng cho mau khô…

Vất vả với nhiều công đoạn mới hoàn thành được một bức tranh nhưng điều trăn trở với mỗi “nghệ nhân” làng Sình là hiện nay kiểu làm thủ công không còn được thịnh hành. Âu cũng là sự thay đổi để bắt kịp với xu thế phát triển của thời cuộc. Xưa kia, màu được pha chế tự nhiên từ cây cỏ: màu vàng nhẹ (lá đung giã với búp hòe non), màu xanh dương (hạt mồng tơi), màu vàng đỏ (hạt hòe), màu đỏ (nước lá bàng, đá son), màu đen (tro rơm nếp hòa tan trong nước rồi lọc sạch, cô lại thành một thứ mực đen bóng)…. Ngày nay, màu được làm từ hóa chất, giấy dó cũng ít được sử dụng. Tuy nhiên, không vì thế mà khách tìm đến mua tranh làng Sình giảm đi.

Đến làng Sình, bạn nên ghé thăm nhà nghệ nhân Kỳ Hữu Phước. Ông năm nay đã 64 tuổi và là người có công phục dựng nghề tranh của làng. Ông là đời thứ 9 làm nghề vẽ tranh cúng.