Bài: Nguyễn Phước Bảo Đàn
Ảnh: Nguyễn Hải, Phong Nguyễn, Long Hồ

Truyền thống thờ cúng cá voi của cư dân miền biển để tỏ lòng biết ơn loài cá hay cứu người trong những lúc nguy nan giữa đại dương.

“Huyền thoại của ngư dân Chăm vùng Nam Trung Bộ Việt Nam kể rằng, cá voi là hóa thân của vị thần Cha – Aih – Va. Vị thần này sau một thời gian khổ luyện pháp thuật, do nôn nóng trở về xứ sở nên đã cãi lời thầy, tự ý biến thành cá voi, ra sông lớn rồi ra biển. Vì vậy, thần đã bị thầy trừng phạt, hóa thành Thiên nga… sau đó lại được làm thần, tự xưng là Pô – Ri – Ak – thần sông biển. Từ đó, thần là ân nhân của người dân bị đắm thuyền trên biển. Cứ nghe các thuyền nhân kêu cứu, thần lại hóa thành cá voi, lập tức tới cứu…”.

Trước buổi lễ cầu ngư ở làng Phương DIên (Huế)

Tri ân vị phúc thần của biển

Thờ cúng cá voi là biểu hiện hàm ơn và trả ơn của người đi biển đối với loài cá hay cứu người trong những lúc nguy nan giữa đại dương. Ngư dân đã nhân hóa loài cá này như thần thánh, gọi là cá Ông. Khi cá chết được tổ chức lễ tang và mai táng theo nghi thức Khổng giáo, tiến hành lễ hội cầu Ngư vào dịp xuân, thu nhị kỳ hàng năm để cầu mưa thuận gió hòa, được mùa tôm cá. Để rồi dưới thời Nguyễn, triều đình quân chủ đã thừa nhận công trạng hộ quốc an dân, bảo hộ, cứu nguy người đi biển của loài cá này, ban cấp nhiều sắc phong với mỹ tự “Nam hải Cự tộc Ngọc lân tôn thần”, đồng thời cho khắc hình tượng vào Nhân đỉnh – một trong Cửu đỉnh ở Huế, với tên gọi Đức Ngư/ Nhân Ngư vào năm Minh Mạng thứ 17 (1836).

Với ngư dân miền biển, việc phát hiện xác cá Ông trên biển, hay trôi dạt vào bờ là điều may mắn cho cá nhân và cộng đồng, đấy là dấu hiệu thần linh lựa chọn địa vực của họ để gửi gắm thân xác, đồng nghĩa với việc cá nhân sẽ gặp nhiều may mắn trong hành trình bám biển để sinh tồn, làng chài, vạn sự ngày một phong quang.

Vào những lúc biển động bất thường, bầu trời u ám, hay mưa phùn kéo dài trong nhiều ngày… ngư dân thường tin rằng cá Ông gặp nạn ở đâu đó trong vùng biển của mình và thường cử người tìm kiếm. Khi bắt gặp xác cá Ông chết ở ngoài biển hoặc trôi dạt vào bờ, họ cố gắng đưa xác cá lên bờ để mai táng, dùng giấy tiền vàng mã và giấy trắng để bọc toàn thân cá, phía trên đầu cá thắp nhiều đèn sáp và hương nhang. Sau đó, họ dựng chòi bên cạnh nhà người trưởng nam – người phát hiện đầu tiên, để đưa cá vào đặt ở đó. Trong đám tang, trưởng nam là người có quyền quyết định mọi việc và phải đi lùi trước linh cữu cá Ông khi đưa tang. Những ngư dân khác tạm gác lại việc đi biển, luôn có mặt để sẵn sàng giúp đỡ và hưởng ân huệ do thần linh ban phát. Các vị bô lão, chức sắc trong làng tập trung họp bàn lựa chọn địa điểm chôn cất cá Ông, ngư dân các vùng khác được thông báo để biết và đến tham dự. Cùng lúc, các loại trướng, phan, cờ xí được treo xung quanh nhà trưởng nam của cá, tạo nên không khí nhộn nhịp và trang nghiêm.

Bộ xương cá Ông được lưu trữ ở đảo Nam Du (Kiên Giang)

Vào ngày đưa tang cá Ông, múa Siêu, hát Bả trạo được ngư dân tổ chức nhằm kể và biểu dương công đức, tỏ lòng tiếc thương vô hạn của mình đối với cá Ông. Đội Siêu Ông gồm các bạn chèo xếp đặt đội hình như một chiếc thuyền tượng trưng, đặt mình trong tư thế của người chèo thuyền linh, hết lòng thành kính đưa hồn cá về nơi an nghỉ cuối cùng.

Sau khoảng một năm, lễ cải táng cá Ông được thực hiện, khi ấy, thanh niên trai tráng trong làng dưới dự chỉ bảo của các vị bô lão tiến hành quật mộ. Những gì còn lại của cá được lấy lên, rửa sạch bằng nước thơm, hong khô dưới ánh nắng mặt trời… và chuẩn bị cho nghi thức nhập cốt. Từ đấy trong vạn lăng, cá Ông sẽ mãi yên nghỉ cùng với rất nhiều đồng loại và nhận lấy sự ngưỡng vọng của người dân làng biển qua chu kỳ lễ tiết hàng năm.

Tục thờ cá Ông của cư dân biển miền Trung

Khởi nguyên từ truyền thuyết của bộ phận cư dân bản địa tiền trú, tín ngưỡng thờ cá Ông là sản phẩm của quá trình biến dưỡng văn hóa Champa – Việt, mang cùng lễ thức, quan niệm của một tín tục vốn ăn sâu bám rễ trong đời sống tâm linh tín ngưỡng cư dân miền biển.

Ở vùng đất Quảng Bình, những miếu thờ cá Ông ở làng biển Cảnh Dương, Lý Hòa, Bảo Ninh… gắn liền với lễ nghi cúng tế hằng năm với ý nghĩa cầu ngư, cầu mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an… Ở Huế, ngoài những làng biển như Phương Diên, Thai Dương, An Bằng, Vinh Giang, An Cư Đông, Vinh Hải,… miếu thờ cá Ông còn hiện diện ở ngôi làng nông nghiệp Mỹ Am. Người làng nói rằng họ đã và đang phụng thờ một bào thai cá voi theo dòng nước dạt vào cánh đồng làng. Ở ngôi làng này, miếu thờ cá Ông trở thành một thiết chế văn hóa của làng, tích hợp vào hệ thống lễ tiết thường niên của cộng đồng. Trên khu vực ven duyên Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa… miếu thờ cá Ông xuất hiện mật tập ở nhiều làng biển và luôn chiếm giữ vị trí quan trọng trong đời sống tín ngưỡng cộng đồng.

Ngư Linh Miếu thờ cá Ông ở làng Cảnh Dương (Quảng Bình)

Hành trình bám biển của cộng đồng cư dân miền biển luôn gắn liền với các loại hình tín ngưỡng thờ cúng các vị thủy thần bảo trợ nghề nghiệp, những vị phúc thần cứu giúp trong lúc nguy nan giữa biển khơi… Thờ cúng cá Ông là tục lệ phản ánh nguyên vẹn chân dung diễn trình giao thoa, biến dưỡng văn hóa trên vùng đất. Đấy là nơi người Việt tìm thấy những nét tương đồng trong hành trang văn hóa của mình qua một cổ tục thể hiện thái độ đền ơn đáp nghĩa đẫm chất nhân văn.

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: