Ở miền sông nước, các món ăn luôn đi cùng rau. Từ miếng thịt luộc, cá khô chiên, cá nướng đến tộ cá kho, nồi lẩu mắm, cái bánh xèo giòn rụm, sự có mặt của rau giúp miếng ngon trở nên đầy đặn hương vị hơn.

Mê cá kho tộ, còn ghiền canh rau
Bữa cơm mà có cá kho tộ, thì thế nào cũng có thêm tô canh rau tập tàng hoặc canh chua. Canh rau tập tàng ngon nhất là vào đầu mùa mưa, độ khoảng tháng năm. Người miền Tây thường cắp cái rổ, ra sau vườn hoặc bờ ruộng, hái đám rau “trời cho” phủ xanh mướt trên mặt đất. Rau tập tàng là lộn xộn nhiều thứ rau góp lại. Nào là rau sam đất, rau má, rau muống, rau dệu, càng cua, cải trời, mồng tơi, bồ ngót, dền cơm, mang vị đất no mưa, mát mẻ, thanh nhẹ, thú vị bởi chút đắng, cay, the nhẹ. Nấu canh rau tập tàng dễ ẹc, ai không rành bếp núc vẫn nấu ra tô canh tập tàng ngon lành. Bắt nồi nước sôi, thêm tí muối, thả mớ rau non, rau dịu xuống thì tắt bếp, rắc ít tiêu xay. Có hôm, bắt được mớ tép sông hoặc cá đồng, nhất là cá bống, đem về nấu canh rau tập tàng, thì “ngon không thứ gì chịu nổi”. Bữa cơm của những ngày tất bật, có khi chỉ cần một món canh cá nấu rau tập tàng là đủ. Vớt con cá ra chấm nước mắm mặn xắt ớt đỏ au, chan nước canh nóng, cứ thế mà lùa cơm khí thế, cao hứng thì hát nghêu ngao cho nhau nghe bài ca dao món ngon quê mình:
À ơi cá bống còn ở trong hang.
Cái rau tập tàng còn ở bờ sâu
Anh về anh sắm cần câu.
Câu lấy con bống nấu rau tập tàng.

Nếu như canh rau tập tàng ăn ngon vào mùa mưa, thì canh chua là món ngon giải nhiệt vào mùa nóng. Trong cuốn sách Muôn Vị Miền Tây của tác giả Trương Chí Hùng, khắc họa đặc trưng hương vị của canh chua Nam Bộ, là chua-ngọt đậm đà chứ không phơn phớt hay thanh tao, rổ rau nấu canh cũng theo lối “nhà có gì nấu nấy”. Chẳng hạn như, gia đình sống trên ghe sẽ nấu canh chua từ các loại rau mọc đặc ken trên sông. Ngó lục bình non giòn xốp, rau muống sông, rau nhút, bông súng, cù nèo (hay còn gọi là kèo nèo), bông điên điển. Còn ai ở trên bờ, thì rau sau vườn cắt mấy nhánh bạc hà, bẻ trái khóm, đậu bắp, cà chua, ngắt mấy lọn rau muống non, vươn tay hái mấy chùm bông so đũa lòa xòa gần mặt đất, thế là dư sức nấu nồi canh chua ngon. Đi nắng về mệt cỡ nào, húp nước canh nóng thiệt chua, giải nhiệt bằng mớ rau nấu canh mát lành, thì tự nhiên thấy khỏe hơn hẳn.

Chợt thèm bông súng mắm kho
Miệt sông nước nhiều cá, lắm mắm. Mắm tép, mắm ba khía, mắm còng, và mắm cá là phổ biến hơn cả. Mắm cá chưng, mắm chiên, mắm sống sẽ hơi khô khan, còn mắm kho thì nhiều nước, hợp để chấm rau. Mắm kho có phần nước nấu từ hai loại mắm cá linh và mắm cá sặc. Thêm mấy miếng thịt ba rọi béo, mớ tép, cá đồng như cá lóc, cá chạch, cá rô nấu cùng khổ qua đắng và cà tím bùi. Người miền Tây thích mắm kho vì nhiều lý do. Có người vì mê mùi mắm thơm. Có người ưng cái vị đậm đà của miếng thịt, khứa cá kho cùng mắm. Có người đơn giản là ghiền ăn rau chấm nước mắm kho. Cuốn rau gọn trong đầu đũa, nhúng vào tô mắm nóng hổi. Lúc rau dịu xuống là lúc cái vị mắm kho tranh thủ thấm vào, mặn và ngọt của mắm, cay từ ớt, thơm mùi sả chính là cái vị mới mẻ của rau khi nó gặp gỡ mắm kho.

Ở Sài Gòn, nếu hôm nào ăn mắm kho, mẹ sẽ dặn tôi mua rau ăn mắm gồm rau má, rau đắng, rau má, bông súng, ngò rí, các loại rau thơm. Bấy nhiêu loại rau thôi, là tôi đã thấy nhiều lắm rồi. Cho tới khi, tôi thấy người ở miền sông nước ăn mắm kho. Rổ rau phải cỡ mười loại, chủ yếu là rau theo mùa, rau sẵn có. Rau sông thì có bông súng, ngó lục bình, rau mác, cù nèo (kèo nèo), rau muống, rau nhút, hẹ nước, mùa nước nổi có thêm bông điên điển. Trên bờ thì có bắp chuối cây, chuối chát, đậu rồng. Người ta hay nói, mắm kho là món ăn điển hình cho chất dân dã của ẩm thực sông nước và tính cách hào sảng của người miền Tây. Vì hễ nghe khách sắp tới nhà chơi, thể nào ba cùng mấy chú sẽ chèo xuồng ba lá ra sông hái rau và lợp cá, mẹ và mấy dì thì chọn khạp mắm cá linh ủ đủ tháng thơm lừng, lăn xăn thái thái, cắt cắt rau củ, xẹt cái bếp ga nấu nồi mắm kho ngon nhất hạng đãi khách phương xa, ăn cho biết đặc sản miền Tây
Ăn bánh xèo hay là ăn rau
Bánh xèo miền Tây là món ăn chơi lẫn ăn no gây thương nhớ. Bột gạo pha với nước cốt dừa béo ngậy. Tiếng xèo xèo của bột gặp dầu nóng. Vỏ bánh giòn tan ở rìa ngoài, càng đi vào giữa bánh lại càng dai mềm. Nhân bánh nhiều lựa chọn từ tôm, thịt ba rọi, vịt xiêm, hến, ốc, ếch, thịt bò, củ hủ dừa.

Bày biện bánh xèo ra bàn, luôn có chén mắm chua ngọt của cà rốt, củ cải xắt sợi và rổ rau sống đủ loại. Bởi bánh xèo mà thiếu rau thì vị ngon mất đi hơn nửa. Cái tươi mát, đủ vị của rau “giấu giếm” bớt cái mỡ màng của dầu mỡ. Có người không biết ăn rau sống, vẫn ăn được bánh xèo, nhưng mau ngán và đâu đó sẽ thấy thiếu hương vị. Đó là vị của đọt xoài non chua chua, the the; mớ lá cách, lá chiết, ít lá cát lồi thơm thơm; lá sung chát chát, lá bứa chua chua, lá đinh lăng the nồng, đều là đặc trưng hương vị rau núi rừng; hay thơm mát nhẹ nhàng của các loại rau vườn như xà lách, cải trời, cải bẹ xanh, diếp cá, tía tô, húng lủi, ngò rí. Rổ rau ăn bánh xèo nhiều lúc còn nổi bật hơn nhân vật chính. Thế nên, nhiều du khách bánh xèo ở miền Tây, lúc ra về không khỏi thắc mắc “Ở xứ này, người ta ăn bánh xèo hay là ăn rau.”
Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: