Bài: Nguyễn Phước Bảo Đàn
Ảnh: Phong Nguyễn

Bắt nguồn từ đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, băng qua hàng trăm thác ghềnh nơi 2 nguồn Tả và Hữu trạch, dòng Hương hội lưu ở ngã ba Bằng Lãng. Từ vị trí này, bỏ lại sau lưng những ồn ào, dữ dội, dòng sông trở nên hiền hòa như dải lụa mềm, uốn mình quanh những bãi bồi phù sa của miền linh địa, làm nền cảnh cho các cung điện, đền đài của xứ Thần châu.

Ngã 3 Bằng Lãng

Dòng sông chảy giữa miền di sản

Người Huế kể rằng, từ rất xa xưa khi đón nàng công chúa Huyền Trân nhà Trần về làm dâu Chiêm quốc, vị vua Chàm Chế Mân (Jaya Simhavarman 3) đã đưa nàng du ngoạn trên dòng sông hoang sơ miền Ô, Lý (Thuận Hóa). Và rồi, bởi hương thơm của loài cỏ Thạch Xương Bồ tràn ngập không gian mà nàng đã ưu ái đặt tên Hương cho dòng sông. Như một sự gắn kết mật thiết giữa con người với tự nhiên, đôi lúc dòng sông ấy được ví như tâm tính của những con người Huế, thoạt trông hiền hòa, tĩnh lặng nhưng lại luôn chứa đựng sự dữ dội khi trái gió trở trời.

“Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”

 Tựa như câu thơ của thi nhân Thu Bồn, cứ thế, trải bao cuộc bể dâu, dòng nước vẫn lặng lờ trôi về phía biển, như ôm hết vào lòng tâm tình của người xứ Huế.

Trải dài hơn 100km từ thượng nguồn đến hạ nguồn, sự êm ả của dòng sông chỉ thực sự trải rộng khi băng mình qua vùng Huế với độ nghiêng của địa hình không quá 10, để rồi khi nhập với nguồn Bồ nơi ngã ba Sình, sông Hương lại trở nên sâu và rộng trước khi hòa mình vào đầm phá Tam Giang.

Mặt trời lặn ở tháp Phước Duyên

Dọc theo đôi bờ Hương giang

Trong suốt 143 năm là kinh đô dưới thời quân chủ, Huế mang hình ảnh của miền cổ tích với những lăng tẩm, lầu đài, cung điện, chùa chiền, phủ đệ… phân bố ở đôi bờ sông Hương. Những sắc màu cổ kính của kiến trúc, sự huyền bí của những cổ vật nhúng đẫm màu thời gian, nét sang trọng của những khu vườn Ngự, vẻ đài các của những phủ đệ, hoa viên… từ rất sớm đã hòa lẫn vào cuộc sống của người dân xứ Huế.

Dọc theo dòng sông, từ Bằng Lãng – nơi luôn bừng sáng bức tranh cảnh sắc mỗi lúc chiều tà, ở những khúc quanh nơi dòng nước va đập vào đá núi tạo nên những vực nước sâu trắc trở, nhiều ngôi miếu thờ đã được người dân dựng nên. Đây cũng chính là nơi kết tụ tâm linh của những nhóm người mà cuộc sống của họ ít nhiều liên quan đến sông nước. Những ngôi miếu thờ này, về sau được thừa nhận, ban cấp sắc phong và đưa vào điển chế thờ tự dưới thời quân chủ. Điển hình như ngôi điện Huệ Nam hiện nay – nơi thờ Thiên Y A Na Thánh mẫu, tiền thân là ngôi miếu nhỏ thờ Ngọc Trản Sơn thần với sự linh hiển lan tỏa trong cộng đồng cư dân, dần được triều đình nhà Nguyễn chú ý và từng bước thừa nhận. Đến đời vua Đồng Khánh (1864 – 1889), nhà vua đã cho xây dựng nơi này trở nên phong quang, cắt cử quan lại tế lễ vào dịp Xuân Thu nhị kì hàng năm, khi ông nhận mình là em của Thánh mẫu, và tự mình làm vị thánh thứ 7 trong hàng Thất thánh của tín ngưỡng thờ Mẫu.

Cũng như điện Huệ Nam, miếu Mệ Nằm (Sơn Chúa điện) gắn liền với câu chuyện li kì về hòn đá ngày một phình to khi được phụng thờ; miếu thờ Mẫu Thoải nơi cồn Hến; hay câu chuyện Bà Trời Áo hiển linh trên ngọn Hà Khê, hay miếu thờ Kỳ Thạch Phu Nhân ở ngã ba Sình… những câu chuyện cứ thế lan truyền qua nhiều thế hệ khiến những nơi này trở thành địa điểm linh thiêng trong mạch sống tinh thần của người dân Huế.

Sông Hương qua Bao Vinh

Với Huế, dòng Hương đôi lúc được ví như một con đường, một lối đi, một không gian mở, lan tỏa những ảnh hưởng của chốn cung đình đến hầu khắp các làng xã dân gian. Từ ngã ba Bằng Lãng, ngược về hướng tây theo hai dòng Tả và Hữu trạch, hình ảnh những bản làng miền Thượng hiện lên trong tầm mắt. Hình ảnh con người với hành trang văn hóa khác lạ như những mảng màu điểm xuyết cho bức tranh sinh động của đôi bờ. Và rồi, người Huế thường kể cho nhau nghe về bài vè Thủy diện của cư dân miền sông nước sống bằng nghề đánh bắt, bán buôn tre nứa trên dòng sông. Cứ mỗi buổi chiều, trên chiếc xe đạp cùng với cặp lồng cơm, nước, họ đi đến các bản làng miền Thượng, sau khi mua lấy những thứ mình cần, họ sẽ kết thành bè và chống về thành phố giữa đêm tối mịt mù. Những tri thức đúc kết bởi nhiều thế hệ trong bài vè sẽ giúp họ tránh được những vực nước hiểm nguy, các bãi bồi hay nhiều rạn đá ngầm tiềm ẩn.

Xuôi về hạ nguồn, băng qua miền di sản, dòng sông là nền cảnh, là nguồn sống cho những làng quê yên ả. Chen lẫn giữa không gian phố thị, giữa những vùng cư trú nơi gò đồi là những ngôi cổ tự Thiên Mụ, Hà Khê, Từ Ân, Bửu Minh, Phước Duyên, Diệu Đế… Những ngôi chùa mái ngói rêu phong, ngày ngày mang tiếng chuông buổi sớm, hòa lẫn vào màn sương bàng bạc, vọng xuống dòng sông rồi lan tỏa thanh âm đi khắp nẻo.

Đến Huế, bạn hãy dành thời gian để đi dọc dòng sông. Có thể bằng chiếc thuyền xuôi dòng đến vùng phá Tam Giang, có thể bằng chiếc xe đạp hoặc xe máy, bạn sẽ nhìn thấy những sinh hoạt ở các làng quê giàu truyền thống. Nơi đây vẫn còn thấy được nét mộc mạc, dung dị bên cạnh sự nhộn nhịp của phố thị. Sẽ có lúc bạn được nghỉ ngơi đôi chút dưới mái chùa tĩnh lặng, hoặc được hòa mình vào cuộc sống của người miền Thượng, lạ lẫm nhưng không kém phần thú vị.

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: