Bài: Hoàng Thư Uyên
Ảnh: Nguyễn Hải
Dòng Ô Lâu huyền thoại trước khi hòa mình vào đầm phá Tam Giang rộng lớn đã để lại bên mình một không gian ấn tượng: Hội Kỳ – ngôi làng cổ lưu dấu nhiều giá trị văn hóa.

Có lẽ sẽ là thiếu sót khi đề cập đến vùng đất miền Trung mà không gợi nhớ cuộc hôn nhân lịch sử giữa nàng công chúa nhà Trần – Huyền Trân với vị vua Champa Chế Mân vào đầu thế kỷ 14 (năm 1306). Sau cuộc hôn nhân này, châu Ô và châu Lý của Champa nhập vào lãnh thổ nước Đại Việt như một món quà sính lễ với tên gọi châu Thuận và châu Hóa – vùng đất Quảng Trị và Thừa Thiên Huế hiện nay. Giữa 2 miền đất, dòng Ô Lâu tự xưa đã như là ranh giới của tự nhiên, của khu vực hành chính cho đến thời hiện đại, và còn là ranh giới của những vùng văn hóa, của giọng nói, của tập quán sinh hoạt… Là ranh giới, nhưng chính bản thân nó lại là con đường nối kết, từ văn hóa của bộ phận người cư trú trên vùng bán sơn địa ở thượng nguồn tới văn hóa của làng xã nông nghiệp, của những làng nghề truyền thống, và của những cộng đồng cư dân sinh sống trên mặt nước. Những địa danh như Hội Kỳ, Câu Nhi, An Thơ, Hưng Nhơn, Phú Kinh, Văn Quỹ… phía tả ngạn; hay Phước Tích, Mỹ Xuyên, Ưu Điềm, Phò Trạch, Vân Trình, Thế Chí… ở hữu ngạn, đều là những danh hương lưu dấu làm nên hình ảnh của một miền di sản.
Chân dung làng cổ…
Nằm trải dài chừng 1km bên dòng Ô Lâu, với chiều rộng khoảng 0,5km, Hội Kỳ (xã Hải Chánh, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị) là ngôi làng có diện tích khá khiêm tốn với hơn 100 hộ, lấy kinh tế nông nghiệp làm chủ đạo.
Ngược dòng lịch sử, sau cuộc Nam chinh của vua Lê Thánh Tông vào năm 1471, vị khai canh của làng đã lựa chọn mảnh đất bồi tụ phù sa bên khúc quanh của dòng sông để làm nơi dừng chân, đặt tên là Hội Kỳ. Ngôi làng từ ấy luôn hướng mặt về phía dòng nước như nguồn sống, lấy lũy tre ngà làm thành trì, mở những ngõ xóm hình xương cá về phía ruộng đồng mặt sau như hậu phương vững chắc.

Từ buổi đầu, thập nhị tông phái (12 dòng họ) của làng như Nguyễn, Nguyễn Văn, Dương Quang, Dương Văn, Trần, Ngô, Nguyễn Đức… đã cùng nhau vỡ đất khai hoang, chọn nghề nông làm sinh kế. Trải qua hơn 500 năm, làng Hội Kỳ có đầy đủ các thiết chế văn hóa tín ngưỡng đình, miếu, nhà thờ tộc họ, tất cả đều hướng mặt ra bờ sông. Đình làng là nơi dân làng tổ chức nghi tiết xuân thu nhị kì hàng năm, là nơi trao truyền văn hóa truyền thống với các lễ tục, lệ làng. Bên cạnh đó, những ngôi nhà thờ họ là nơi lưu giữ các văn bản gia phả, sắc phong, văn sớ cúng tế, nơi cố định nề nếp, gia phong của dòng họ. Đặc biệt, trong không gian của làng, khoảng đất phía sau khu vực cư trú hiện còn lăng tẩm của bà phi Dương Thị Ngọt – người con tài sắc của làng, vị cửu giai tài nhân – phi tần của vua Thành Thái – vị vua thứ 10 của triều Nguyễn.
Làng Hội Kỳ nhỏ, hẹp, nhưng ẩn mình bên trong không gian ấy lại là cảnh sắc trữ tình với hệ thống di sản văn hóa đồ sộ được hun đúc qua nhiều thế hệ.
… với những nốt trầm mộc mạc
Trong một chuyến khảo sát vào năm 2014, ông Kitani Kenta, chuyên gia thuộc Viện Di sản Thế giới của UNESCO, đại học Waseda, Nhật Bản đã từng nhận xét “… nhìn chung, các cung điện ở Huế không đạt độ tinh xảo, chi tiết như những ngôi nhà rường ở Hội Kỳ”. Sự tinh xảo và chi tiết ấy đến từ bàn tay tài hoa của những người thợ mộc ở Quảng Trị, vốn là những kíp thợ xây dựng nhà rường nổi tiếng ở miền Trung.
Có khoảng hơn 20 ngôi nhà rường có tuổi đời hàng trăm năm ở làng Hội Kỳ. Kết cấu của chúng là dạng 1 gian 2 chái (phương đình/ nhà bánh ú), 3 gian, hoặc 3 gian 2 chái. Bộ rường nhà được làm từ gỗ mít, liên kết với nhau bằng các ngàm, mộng, nêm, chốt mà không dùng đinh, ốc, vít, dây néo hay bất cứ chi tiết nào làm bằng kim loại. Cột được đặt trên các chân bằng đá đẽo thành hình khối vuông hoặc hình trái bí để chống ẩm, mối mọt. Mái nhà lợp ngói liệt, phía trước mở 18 lá cửa thượng song hạ bản, tường xây gạch, nền bằng đất nện, lát gạch hoa hoặc tráng xi măng. Nét tinh xảo trên những bộ rường nhà thể hiện ở chi tiết chạm khắc hình rồng, cù… các đề tài trang trí mang chủ đề tứ thời, bát bửu, những hình tượng hoa mai – chim hạc, hoa cúc – con bướm, chùm nho – con sóc.

Điển hình trong số những ngôi nhà rường ở Hội Kỳ là Tích Khánh Đường, được dựng vào năm Thành Thái nguyên niên (1889) bởi ông Dương Văn Vĩ – vị chánh tổng tổng An Thơ dưới thời Nguyễn. Ngoài lối kiến trúc đặc trưng, ngôi nhà này có những vật dụng như sập gụ, tràng kỷ, tủ chè, cùng với hoành phi, câu đối được bố trí hài hòa, tôn trí lẫn nhau. Đây thực sự là một tác phẩm nghệ thuật về kiến trúc, sắp đặt.
Đến với Hội Kỳ, chúng ta cảm nhận một cách trọn vẹn vẻ đẹp của những ngôi nhà rường nằm ẩn mình thấp thoáng trong các khu vườn được bao bọc bởi một vòng rào tạo bởi những cây chè Tàu luôn cắt xén phẳng phiu… Từ cổng ngõ, sau lối đi giới hạn bởi hàng cây là bức bình phong, bể cạn, hòn non bộ, khoảng sân nhỏ. Sắp bày nơi khoảng sân là những chậu trồng cây kiểng, vài giò phong lan được treo rải rác dưới mái hiên, 2 bên và sau vườn trồng cây lưu niên, hoa trái, cây gia vị.
Mang đầy đủ thuộc tính của một loại hình kiến trúc đặc thù, những ngôi nhà rường ở Hội Kỳ hiện lên trong mắt người quan sát với một vẻ gì đó e ấp, thầm kín và tĩnh lặng… Tuy thế, ta vẫn có thể cảm nhận được chất mãnh liệt, mạch sống ẩn tàng dưới vẻ hiền hòa ấy. Đây cũng là thế ứng xử rất thông minh của con người với môi trường sống.
Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: