Bài: GS.TS Trịnh Sinh
Ảnh: Vinh Dav

Có lẽ ít có bài hát nào có sức lan tỏa như nhạc phẩm Quê hương (nhạc sĩ Giáp Văn Thạch phổ thơ Đỗ Trung Quân) khi nói về những kỷ niệm tuổi thơ có chùm khế ngọt, con đường đi học rợp bướm vàng bay, cánh diều biếc, con đò, cầu tre…ở bất kì làng quê nào mà người Việt khi xa quê cũng nhớ đến nao lòng:

“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”

Làng Đường Lâm

Cái nôi của những ngôi làng cũng như văn minh Việt Nam là vùng châu thổ sông Hồng màu mỡ phù sa, thích hợp với việc trồng cây lúa nước. Hai học giả người Pháp của trường Viễn Đông Bác cổ là ông P. Huard và ông M. Durand đã từng có nhận xét “các làng mạc lớn của họ, được tổ chức mạnh mẽ khiến họ liên kết với nhau đủ chặt chẽ, thì chính mức độ chuyên môn hóa cao của họ về trồng lúa đã đưa họ từ cánh đồng này đến cánh đồng khác cho tới đồng bằng sông Mê Kông và tới vịnh Cao Miên trong một cuộc Nam tiến lạ kỳ”. Chính ngôi làng Việt là “tế bào sống” của xã hội Việt (chữ của giáo sư Từ Chi). Suốt mấy ngàn năm trồng lúa nước, người Việt quần tụ với nhau để đắp đê chống lụt, tính cộng đồng gắn bó với nhau rất cao.

Tính cộng đồng trong khuôn khổ của làng Việt đã tạo ra sức mạnh chống ngoại xâm “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh” và sức mạnh chống đồng hóa về mặt văn hóa của từ các đế quốc hùng mạnh. Từ chỗ người Lạc Việt thuộc cộng đồng Bách Việt (100 tộc Việt) cách đây hơn 2.000 năm, sau nhiều lần bị xâm lăng mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa và định vị trên bản đồ thế giới, trong lúc tất cả các tộc Việt còn lại đã bị đồng hóa vào một đế quốc rộng lớn hơn. Những “tế bào” làng Việt đó đã góp phần giúp đất Việt trường tồn.

Làng So

Trong làn sóng đô thị hóa hiện nay, nhiều làng cổ đã thay đổi, nhưng cũng không ít vẫn giữ được hồn cốt của mình. Điển hình như phố cổ Hà Nội có đình Kim Ngân (phố Hàng Bạc) thờ ông tổ Bách Nghệ (trăm nghề), đình Hà Vỹ (phố Hàng Hòm) thờ ông tổ nghề sơn, đình Tú Thị (phố Yên Thái) thờ ông tổ nghề thêu, đình Trúc Lâm (phố Hàng Hành) thờ ông tổ nghề da giầy… Những ngôi đình này là minh chứng cho một cuộc di dân làng nghề từ nhiều địa phương trong thời Hậu Lê ra kinh đô Thăng Long. Khi đó, kinh đô cần những thợ thủ công tay nghề cao để phục vụ triều đình Đại Việt cho nên thợ giỏi muôn nơi kéo về dựng làng xóm ở phía tây Hoàng Thành. Họ từ làng quê lên chốn kinh kì mang theo phong tục tập quán, và đương nhiên còn mang cả hồn cốt của ngôi làng Việt lên quê hương mới. Vài trăm năm trôi qua, các ngôi đình thờ tổ nghề của các cộng đồng di cư vẫn còn nguyên trong phố thị. Hàng năm cứ đến ngày giỗ tổ nghề, con cháu của làng xưa lại tổ chức lễ hội tưng bừng. Đây cũng chính là những địa chỉ du lịch hấp dẫn du khách nước ngoài tham quan Hà Nội.

Làng Thổ Hà

Những ngôi làng Việt hình thành cách đây hơn 2.000 năm và tồn tại cho đến tận ngày nay. Hình ảnh ngôi làng có lẽ được miêu tả chính xác nhất là bởi một học giả Pháp, ông P. Gourou. Làng xưa được bao bọc bởi một lũy tre xanh. Đấy là một lũy bảo vệ làng, đánh dấu ranh giới của làng. Con đường vào làng thường độc đạo, 2 bên được bao bọc bằng ao làng. Cổng làng được xây khá đẹp bằng gạch và được đóng vào buổi tối, phía trên có lầu để tuần đêm canh gác. Đường làng theo một trục chính và 2 bên có các ngõ hình răng lược. Bao quanh làng và có khi là ở cạnh nhà ở thường được đào những cái ao, dựng cái cầu đơn giản bằng ván, dân làng múc nước ao để tắm, để vo gạo, rửa bát, giặt quần áo, nuôi cá, thả bèo… Giếng làng là nơi cung cấp nước sạch để ăn uống, lại cũng là nơi các cặp trai gái trong làng gặp gỡ trò chuyện mỗi khi cùng đi lấy nước.

Ngoài ngôi đình, còn có các di tích tôn giáo khác biểu tượng của mỗi làng như chùa làng, đền thờ Thành Hoàng, miếu, văn chỉ… đã đi vào ca dao, tục ngữ và ăn sâu trong tâm thức người Việt. Nay những di tích này trở thành vốn di sản quý giá trong giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế du lịch.

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: