Hoàng Bùi

Làng biển Cảnh Dương nằm ở hữu ngạn sông Roòn, nhìn từ trên cao tựa bán đảo nhỏ với ba bề là sông biển mà người xưa đã ví như con thuyền đang bồng bềnh trên sông nước. Từ trước năm 1945, Cảnh Dương đã được người Quảng Bình xếp vào 1 trong 8 làng văn vật của Châu Bố Chánh.

Chợ hải sản lúc sáng sớm bên làng biển Cảnh Dương

Theo sử sách, làng Cảnh Dương được thành lập năm Quý Mùi (1643), tính đến nay đã tròn 380 năm. Người dân của làng có nguồn gốc từ Nghệ An, Thanh Hóa di cư vào. Vùng đất này còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như chuông cổ Cnh vin hng chung, đúc vào đời vua Cảnh Thịnh năm 1801, tấm bia đá khắc tên các vị khoa bảng của làng… cùng nhiều di sản văn hóa thể hiện qua các phong tục, tập quán sinh hoạt.

Nhng phong tc ít nơi có

Cảnh Dương là ngôi làng có nhiều tập tục văn hóa độc đáo. Đầu tiên phải nhắc tới lễ rước lửa thiêng đêm giao thừa, bắt nguồn từ cuộc sống lênh đênh trên biển. Vào thời khắc chuyển giao sang năm mới, tại đình tổ, các vị cao niên làm lễ cúng thần linh, đức ông Nam Hải để cầu may mắn, an hòa cho ngư dân. Một ngọn đuốc được vị bô lão uy tín nhất làng xin lửa từ bàn thờ tổ, mang ra châm vào đống củi lớn xếp giữa sân. Đúng vào lúc giao thừa, tất cả các gia đình trong làng đều đi xin lửa thiêng từ đây. Người đi xin lửa là trai tráng khỏe mạnh hoặc nam giới chủ gia đình. Lửa thiêng được hy vọng mang tới nhiều vận may cho dân làng.

Cách hát ru và những lời ru cũng là một nét văn hóa đặc biệt ở Cảnh Dương. Người làng không bắt đầu điệu hát ru bằng câu “à ơi” như nhiều địa phương khác. Câu hát ru được mở đầu hoặc kết thúc bằng hò hẻ hò hè, bôồng bôổng bôông bôông… Đàn ông trong làng hát ru hay không kém gì phụ nữ. Ông Nguyễn Tiến Nên, một người am hiểu văn hóa làng Cảnh Dương cho biết, trước đây người làng sống chủ yếu trên tàu thuyền, nên tiếng hát ru cũng lắc lư như con sóng đánh vào mạn thuyền. Khi lênh đênh trên biển, giọng người mẹ, người chị vốn nhỏ nhẹ nên thường bị tiếng sóng át, vì thế chỉ có chất giọng trầm hùng của người bố, người anh mới giúp cho em bé nghe rõ lời ru mà vào giấc ngủ. Lời hát ru không chỉ kể những câu chuyện mộc mạc, đời thường mà còn có cả những kinh nghiệm đi biển, lời tỏ tình của đôi lứa. Không chỉ đàn ông lớn tuổi biết hát ru mà cả trung niên, thanh niên cũng biết và thường hay hát. Giăng lưới hát, đẩy thuyền cũng hát, chuyển cá vào bãi vẫn hát như tự động viên mình và bạn thuyền.

Rước kiệu Thành hoàng làng về Ngư Linh Miếu

Mt mình anh chng lin chèo

 Ly ai tát nưc sang lèo cho anh

Ly anh thy đói đng lo

Ly anh tát nưc ming hò kéo neo

Hò hhò hè, bông bông bôông bôông…

Bây giờ, người Cảnh Dương còn hát thêm những câu hát vui tươi, động viên nhau chăm chỉ làm ăn:
Ai vđt Cnh hôm nay

Ra khơi vào lng sóng reo sm chiu

Thuyn anh chnng cá tôm

Trên bem đón trái tim rn ràng

 Hò hhò hè, bông bông bôông bôông…

Đội tàu cá của làng Cảnh Dương là một trong những đội tàu mạnh nhất tỉnh Quảng Bình, vươn khơi đến tận ngư trường Hoàng Sa và Trường Sa. Trên hải trình, lời ru mộc mạc ấy giúp những người đàn ông vững tay lái bám biển

Ngôi làng đm cht văn hóa

Cảnh Dương còn được biết đến là làng bích họa độc đáo trên bản đồ du lịch Việt Nam. Ở đây có hàng chục bức bích họa 3D đong đầy cảm xúc, tái hiện các hoạt động văn hóa, lao động, trò chơi dân gian, chèo cạn, đua thuyền truyền thống, tín ngưỡng thờ cá Ông, cá Bà.

Du khách thích thú tại làng bích họa Cảnh Dương

Tín ngưỡng thờ thần biển là nét văn hóa đã ăn sâu vào tâm thức người dân Cảnh Dương. Nhiều người vẫn gọi nơi đây là “làng cá voi”, bởi tục thờ cá voi mang đậm bản sắc văn hóa miền biển. Vùng đất này có một nghĩa địa cá voi nằm bên bờ biển, hướng ra khơi với khoảng 30 mộ cá, được người dân cắm bia, đặt tên và hương khói chu đáo. Dân làng xây dựng Ngư Linh Miếu để thờ, bảo quản, gìn giữ hai bộ xương cá ông (đức Ông), cá bà (đức Bà) đã “lụy” (mắc cạn và chết) bên bờ biển của làng hàng trăm năm trước. Hai bộ xương cá này được cho là lớn nhất đang còn lưu giữ ở Việt Nam, với chiều dài lên tới 28m.  Ngư Linh Miếu như một điểm tựa tinh thần vững chãi cho những ngư dân ở mảnh đất này. Kể từ khi làng lập miếu thờ thì lễ hội Cầu ngư – Chèo cạn được tổ chức thường niên vào mỗi dịp rằm tháng Giêng, gắn liền với việc cúng tế cá voi. Những ước mơ bình dị về một cuộc sống ấm no, về những chuyến ra khơi đầy ắp cá tôm giữa trời yên biển lặng được gửi gắm trong những lời khẩn cầu thành kính của người dân đến cá Ông, cá Bà. Phần hấp dẫn nhất, sinh động nhất, đặc sắc nhất và độc đáo nhất của lễ hội Cầu ngư chính la phần hát chèo cạn. Hát chèo cạn được tổ chức trên bãi cát, trước miếu thờ đức Ông. Người ta làm một con thuyền tượng trưng bằng tre nứa và giấy bồi. Đội hát chèo cạn có từ 8 đến 10 người, cầm chèo đứng trong lòng thuyền vừa làm động tác đẩy thuyền đi, vừa hò hát các làn điệu dân ca miền biển.

Bộ xương cá Ông được thờ trong Ngư Linh Miếu

Làng Cảnh Dương được xem là thiết chế văn hóa mở, đậm sắc thái biển. Ngay từ khi định cư, dân làng đã hướng ra sông, biển để làm ăn. Người làng không chỉ biết có chài lưới mà họ học tập và sáng tạo nên nhiều kỹ thuật trong chế biến thủy hải sản, gắn nghề chài lưới với nghề hàng hải và thương mại. Dân làng không chỉ quan hệ giao thương với các làng xã trong vùng mà còn mở rộng quan hệ từ Bắc tới Nam thông qua buôn bán, trao đổi hàng hóa hai chiều hoặc xuất khẩu nhân lực. Chính vì vậy mà ngày nay làng Cảnh Dương đã trở thành một trung tâm kinh tế – văn hóa lớn của Quảng Bình.