Thanh Hiển
Ngày 30/4 lịch sử – ngày non sông liền một dải. Trong những ngày cả đất nước rộn ràng nhất, giữa những công trình vươn cao và những xu hướng mới nhất không ngừng đổ về, TP. Hồ Chí Minh vẫn giữ trong lòng nhiều dấu vết của một thời khốc liệt. Lần theo những dấu vết đó, lặng nghe hơi thở quá khứ, những người trẻ có cơ hội nhìn ngắm đất nước ở một thời không khác để thấu hiểu hơn sự quý giá của hòa bình hôm nay.

Địa đạo Củ Chi – “Đất thép thành đồng”
Có những miền đất mà chỉ cái tên thôi đã gợi lên những câu chuyện lịch sử anh hùng. Địa đạo Củ Chi là một miền đất như thế. Chúng tôi đến địa đạo vào một buổi sáng tháng Tư lịch sử. Cách trung tâm TP. Hồ Chí Minh khoảng 70km, đây là một trong những di tích lịch sử quan trọng nhất của cuộc Kháng chiến chống Mỹ thống nhất đất nước. “Ai đã đào những đường hầm kỳ vĩ/ Còn kỳ công hơn xây những lâu đài…” những câu thơ trong Thăm địa đạo Củ Chi của tác giả Lê Quang Định đã giúp mường tượng về một kỳ quan thực thụ khi mà nằm dưới mặt đất tưởng như bình thường là cả một “thành phố ngầm”.
Địa đạo bắt đầu xây dựng từ cuối những năm 1940 trong thời kỳ Kháng chiến chống Pháp. Đến những năm tháng khốc liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ, hệ thống địa đạo ngày càng mở rộng, ấp liền ấp xã liền xã trở thành một mê cung chằng chịt dài hơn 250km kết nối các hầm trú ẩn, bệnh viện dã chiến, kho vũ khí, nơi làm việc, sinh hoạt của lực lượng vũ trang và người dân Củ Chi. Nơi đây, những người lính đã biến bóng tối thành vũ khí, biến lòng đất thành chiến trường. Có những chiến sĩ đã phải sống hàng tháng trời dưới lòng địa đạo, không thấy ánh mặt trời. Có những người đã mãi mãi nằm lại nơi đây, hóa thân vào đất trở thành một phần của địa đạo.
Địa đạo Củ Chi chào đón du khách trong nước và quốc tế tại hai khu vực tham quan là địa đạo Bến Đình và Bến Dược. Ngày nay, những cơn bão đạn bom đã lùi vào quá khứ, nhường chỗ cho những cánh đồng xanh mướt và dòng sông Sài Gòn hiền hòa. Nhưng nơi đây vẫn mãi là một địa danh mang tính biểu tượng cho tinh thần chiến đấu quật cường của dân tộc, đồng thời thể hiện trí tuệ độc đáo của người Việt. Dấu chân của một thời hoa lửa vẫn còn hiện hữu ở nơi ấy như một lời nhắc để chúng ta nhớ rằng được đi lại tự do trên mặt đất, được hít thở bầu không khí yên lành, được sống với những điều mình khao khát không phải là một lẽ tự nhiên, mà là một món quà thiêng liêng được đánh đổi bằng bao tuổi xuân.
Bảo tàng Biệt động Sài Gòn – Gia Định

Quay trở lại trung tâm thành phố, tiếng rao của gánh hàng rong hòa lẫn âm thanh xe máy xuôi ngược gợi nhắc về một Sài Gòn rất đời. Nhưng cũng chính chất đời đó đã tô điểm thêm cho vẻ đẹp can trường, quả cảm của những người đã khoác lên mình cái tên “Biệt động Sài Gòn”. Họ là ai? Những chiến sĩ gan góc len lỏi giữa dòng người, hoạt động công khai mà bí mật, nơi từng quán cà phê hay tiệm ăn bình dị lại là căn cứ, nơi tiếng cười giòn tan che giấu những kế hoạch táo bạo. Lịch sử không chỉ nằm trong những trang sách mà còn in dấu trên từng viên gạch lát đường, từng bức tường phủ rêu xanh.
Cánh cửa nhỏ tại số 145 Trần Quang Khải mở ra một thế giới khác – giản dị, trầm mặc, nhưng đậm đà tinh thần dân tộc. Bảo tàng từng là một căn nhà bí mật của lực lượng Biệt động Sài Gòn dưới sự quản lý của ông Trần Văn Lai (Năm Lai). Hiện đây là nơi lưu giữ khoảng 300 hiện vật về quá trình hình thành, phát triển của Lực lượng Biệt động cùng những trận đánh tiêu biểu của những anh hùng trong lòng thành phố. Nổi bật là khẩu cối 82mm từng được sử dụng để bắn vào trụ sở, nơi làm việc của tướng Westmoreland vào ngày 13/2/1967, cùng với đó là tấm bản đồ cỡ lớn mô tả các mũi tấn công của Biệt động trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.
Còn nhớ những hình ảnh trong bộ phim truyền hình nổi tiếng “Biệt động Sài Gòn” của đạo diễn Long Vân, những chiến sỹ đã hy sinh cả tuổi trẻ và tình yêu để bảo vệ một lý tưởng cao đẹp nhất của đời người. Những “vai diễn” tài tình, những chiến lược du kích vào ra ngay trong lòng “thủ phủ” của địch, những trận đánh bùng nổ giữa lòng thành phố, tất cả đều thể hiện một tinh thần khát vọng tự do cháy bỏng. Họ không chỉ chiến đấu cho tự do của đất nước, mà còn cho những giá trị nhân văn, cho cuộc sống tươi đẹp mai sau mà chúng tôi là những người có diễm phúc được thừa hưởng.

Cơm tấm Đại Hàn – Cà phê Đỗ Phủ
Cơm tấm Đại Hàn không chỉ đơn thuần là một quán ăn, mà còn là một chứng nhân lịch sử. Trước năm 1975, quán cơm Đại Hàn của ông bà Đỗ Miễn là một trạm giao liên, nơi này sát vách nhà tướng Việt Nam Cộng Hòa thời đó. Cùng thời điểm, đây cũng chính là nơi hoạt động bí mật của lực lượng Biệt động Sài Gòn. Quán tên Đỗ Phủ – tức phủ của tộc họ Đỗ, ban đầu quán chỉ bán cơm bình dân, dần dà trở thành địa điểm tụ họp của những cư dân trong đó có nhiều lính Đại Hàn (lính Hàn Quốc sang tham chiến trong cuộc chiến tranh Việt Nam) ở cư xá công binh đối diện.
Món cơm tấm lịch sử này còn là sự pha trộn văn hóa giữa món cơm tấm quá đỗi quen thuộc đối với người Việt Nam và kim chi của Hàn Quốc. Món cơm ban đầu ở quán có thịt sườn nướng, bì, chả, trứng, rau muống ngâm chua ăn cùng nước mắm tỏi ớt pha ngọt kiểu miền Nam. Những người lính Đại Hàn ăn không quen nên đề xuất chủ quán làm thêm kim chi. Được biết, về sau này những cựu lính Đại Hàn vẫn trở lại quán cơm, tìm lại hương vị xưa và ôn lại kỷ niệm cũ.
Ở đây, người ta vẫn truyền tai nhau câu chuyện về những người chiến sĩ Biệt động đã trú ẩn và lên kế hoạch cho những trận đánh lớn khi Sài Gòn sục sôi lửa đạn. Chúng tôi ngồi xuống, thưởng thức phần cơm tấm và lặng nghe không gian xung quanh. Chỉ cách vài bước chân là căn hầm bí mật – nơi từng cất giấu vũ khí và những con người dám hy sinh vì nền độc lập. Hương cà phê thơm nồng quyện vào không gian, đưa chúng tôi chìm vào những suy tư về quá khứ.

Bảo tàng Chứng tích chiến tranh
Rời khỏi quán nhỏ đầy ký ức giữa nhịp sống hối hả của Sài Gòn, chúng tôi tìm đến góc phố trên đường Võ Văn Tần, Quận 3 – địa chỉ của Bảo tàng Chứng tích chiến tranh. Bảo tàng đứng đó, sừng sững như một chứng nhân của thời gian. Ngay từ cổng vào, chúng tôi đã cảm nhận được sự trang nghiêm và thiêng liêng trải dọc theo từng bước chân mình. Mỗi hiện vật được trưng bày trong lồng kính đều mang theo câu chuyện của hàng triệu con người. Bảo tàng được thành lập vào tháng 9/1975, nằm trong hệ thống các bảo tàng vì hòa bình thế giới và là thành viên của Hội đồng các bảo tàng thế giới (ICOM). Bảo tàng gồm có 3 tầng, mỗi tầng trưng bày các chủ đề và hiện vật riêng.
Tầng trệt với điểm nhấn là “Chuồng cọp” – một kiểu giam giữ của nhà tù Côn Đảo, sự tra tấn khủng khiếp nhất của quân Mỹ đối với những tù nhân yêu nước. Cùng với đó là không gian trưng bày với chuyên đề “Thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ” giai đoạn 1954 – 1975. Tầng 1 với chủ đề “Tội ác chiến tranh xâm lược” và “Hậu quả chất độc màu da cam” gây ra những tội ác đáng sợ và hậu quả đau thương của cuộc chiến đối với đất nước và người dân Việt Nam. Đến tầng 2, du khách sẽ được tham quan chuyên đề “Những sự thật lịch sử” qua 66 bức ảnh, 20 tài liệu và 153 hiện vật. Nơi đây còn ghi dấu ấn với chuyên đề “Hồi niệm” gồm bộ sưu tập ảnh của những phóng viên đã mất khi tác nghiệp trên chiến trường Đông Dương.
Bước vào bên trong, những bức ảnh, những hiện vật khiến chúng tôi lặng người. Hình ảnh những nạn nhân chiến tranh, những đôi mắt trẻ thơ ngây dại giữa tro tàn đổ nát, những bức thư của người lính gửi về quê nhà… tất cả như một thước phim quay chậm, tái hiện lại những năm tháng không thể nào quên.
Bước chân ra khỏi bảo tàng, chúng tôi thấy mình đã đi qua nhiều mảng màu đối lập – từ những mảng màu u tối trong không gian địa đạo, tới bữa cơm bình dị giữa không gian xưa cũ và tới cả những trang sử bi hùng trong bảo tàng. Sài Gòn hôm nay có thể đã khác xa Sài Gòn của năm ấy, nhưng lịch sử thì chưa bao giờ là quá khứ. Nó vẫn sống động trong từng góc phố, trong mỗi hơi thở, trong từng con người biết trân trọng quá khứ để hướng đến một tương lai tươi sáng hơn.
Dinh Độc lập

Khi nắng chiều dần thu về trên nóc những tòa cao ốc của thành phố, chúng tôi bước tới đích cuối cùng của hành trình nhiều cảm xúc hôm nay – Dinh Độc Lập. Khoảnh khắc nhìn thấy cánh cổng sắt, trong đầu tôi lập tức vang lên giọng đọc vào buổi trưa tháng Tư năm ấy “Mời các bạn nghe tin chiến thắng chúng tôi mới nhận được…” – thời khắc lịch sử khép lại một chương đau thương và mở ra một trang mới cho dân tộc.
Dinh Độc Lập được xây dựng trên diện tích 120.000m², gồm 3 tầng chính, 1 sân thượng, 2 gác lửng, tầng nền, 2 tầng hầm và một sân thượng cho máy bay trực thăng đáp xuống. Hơn 100 căn phòng của Dinh được trang trí theo phong cách khác nhau tùy theo mục đích sử dụng bao gồm các phòng khánh tiết, phòng họp hội đồng nội các, phòng làm việc của Tổng Thống và của Phó Tổng Thống, phòng trình ủy nhiệm thư, phòng đại yến… Và đặc biệt tại Dinh Độc Lập cũng có bia tưởng niệm các chiến sĩ Biệt động Sài Gòn.
Trên nền cũ của Dinh Norodom còn gọi là Dinh Toàn quyền Đông Dương, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã xây dựng một kiến trúc hiện đại kết hợp với bố cục truyền thống, tạo nên một công trình hoành tráng, hài hòa với không gian cây xanh. Di tích cấp quốc gia đặc biệt này tiêu biểu cho nền kiến trúc đương đại Việt Nam, trở thành công trình văn hóa lịch sử cho TP. Hồ Chí Minh.
Chuyến đi kết thúc ở điểm lưu giữ chiến thắng, nhưng chúng tôi biết, mỗi ngóc ngách trong thành phố sôi động và ngày càng hiện đại này chưa bao giờ quên đi những ngày khói lửa. Giống như thế hệ trẻ chúng tôi, dù ưa chuộng xu hướng và mới mẻ, nhưng vẫn sẽ luôn tìm về cội nguồn để tìm thêm sức mạnh, để biết mình đang đứng ở đâu và trân trọng những gì mình đang có.
Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: