Bài: PGS.TS Vũ Hùng Cường
Ảnh: Tonkin, Đào Cảnh
So với cùng kỳ năm 2023, đơn hàng dêt may xuất khẩu đầu năm 2024 của Việt Nam đã nhiều hơn, thời gian đặt hàng dài hơn, thoát khỏi tình trạng “ăn đong” từng tháng của năm 2023.
Ba năm chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19 và hậu quả kéo dài sau đó đã khiến ngành dệt may toàn cầu sụt giảm nghiêm trọng. Từ các quốc gia xuất khẩu hàng may mặc lớn trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia đến Việt Nam đều gặp nhiều khó khăn do thiếu hụt đơn hàng, gián đoạn chuỗi cung ứng vận tải hàng hóa và cước vận tải biển tăng cao. Nhu cầu tiêu dùng hàng may mặc trên các thị trường chủ lực như Mỹ, EU đều giảm mạnh do người dân thắt chặt chi tiêu.
Áp lực khó khăn tiếp tục kéo sang đến năm 2023 khi ngành dệt may Việt Nam bị giảm đơn hàng trung bình từ 25% đến 27%. Tình hình chỉ có vẻ ấm lại vào đầu năm nay khi các số liệu xuất khẩu cho thấy nhiều dấu hiệu lạc quan. Vấn đề là tín hiệu lạc quan chưa tới từ yếu tố cơ bản là sự gia tăng chi tiêu của các thị trường mà phần nhiều là nhờ tỷ giá và sự dịch chuyển đơn hàng từ các quốc gia khác sang Việt Nam.

Tín hiệu ấm dần
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt trên 16,5 tỷ USD, tăng 5,04% so với 6 tháng đầu năm 2023. Tháng 7 là tháng đầu tiên trong năm 2024 kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam vượt mốc 4 tỷ USD, cũng là tháng có kim ngạch xuất khẩu đạt mức cao nhất kể từ tháng 08/2022.
Xuất khẩu sang EU, một trong những thị trường lớn bên cạnh Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc, đang hồi phục nhẹ, chiếm 11,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu và đạt gần 1,9 tỷ USD, tăng 1,6%.
Thống kê nửa đầu năm 2024, xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang 6 thị trường khối EU đạt kim ngạch trên 100 triệu USD trở lên, nhưng có sự phân hóa. Trong nhóm tăng, Hà Lan, thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam trong khối EU, ghi nhận sự phục hồi mạnh nhất, đạt xấp xỉ 565,3 triệu USD, tăng 19,97% so với cùng kỳ, chiếm 29,7% tổng kim ngạch xuất khẩu sang EU. Ngoài ra, Bỉ đạt gần 206,2 triệu USD; Pháp đạt 206,01 triệu USD; Ý đạt gần 159,29 triệu USD. Trong khi ở nhóm giảm, Tây Ban Nha đạt gần 252,4 triệu USD và Đức đạt gần 363,7 triệu USD.
Một điểm sáng nữa là dệt may Việt Nam đã vươn lên đứng đầu thị phần xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường Mỹ, vượt qua Trung Quốc và đứng đầu về tốc độ tăng trưởng trong 3 quốc gia xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới.
Trong 5 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu dệt may Việt Nam đạt gần 16 tỷ USD, tăng 5% so cùng kỳ năm trước, trong khi Trung Quốc đạt 66 tỷ USD, giảm 2% và Bangladesh đạt 21,7 tỷ USD, chỉ tăng 3,9%. Đáng chú ý là trong tháng 5 năm 2024, xuất khẩu dệt may của Bangladesh suy giảm tới 16% do nhiều bất ổn nội địa.
Cơ hội và thách thức cũ, mới đan xen
Theo thống kê từ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), năm 2020, Việt Nam vượt qua Bangladesh, trở thành nhà xuất khẩu hàng may mặc lớn thứ 2 thế giới. Tuy nhiên, từ cuối năm 2022 đến hết quý 2/2023, nhiều doanh nghiệp dệt may trong nước đã phải thu hẹp sản xuất, sa thải hàng ngàn lao động do sụt giảm đơn hàng xuất khẩu. Trong khi đó, tại châu Âu và Mỹ – những thị trường xuất khẩu chính của hàng may mặc Việt Nam, người tiêu dùng vẫn chưa đẩy mạnh chi tiêu trở lại, dẫn đến cầu thấp khiến nhiều doanh nghiệp lo lắng về tình trạng tồn kho.

Dệt may Việt Nam vẫn phải chịu áp lực cạnh tranh gay gắt từ Bangladesh, quốc gia có lợi thế hơn Việt Nam về chi phí nhân công và đồng nội tệ của Bangladesh giảm mạnh hơn so với đồng Việt Nam. Chi phí tiền lương công nhân may mặc của của Bangladesh là 95USD/người/tháng, chỉ tương đương với 1/3 mức chi phí của Việt Nam là 300USD/người/tháng. Tuy nhiên, hiện nay Bangladesh đang có tình trạng bất ổn chính trị, dự kiến sẽ ảnh hưởng nặng nề đến năng lực sản xuất hàng dệt may. Nhiều khách hàng sẽ phải dịch chuyển đơn hàng sang nước khác để bù đắp số lượng thiếu hụt, và đây có thể là cơ hội cho Việt Nam.
Bên cạnh đó, cần nhận diện đúng bản chất của sự khởi sắc xuất khẩu dệt may Việt Nam 5 tháng đầu năm 2024 không xuất phát từ tăng cầu hàng dệt may của thế giới, mà là nhờ sự dịch chuyển nhất định đơn hàng từ các quốc gia khác sang Việt Nam kết hợp với lợi thế tỷ giá khi VNĐ mất giá 5% so với đồng USD kể từ đầu năm, trong khi đồng tiền các quốc gia cạnh tranh gần như không đổi so với USD.
Chính vì vậy, đơn hàng dù nhiều hơn nhưng giá vẫn không tăng so với giai đoạn 2022 – 2023, thậm chí thấp hơn 20% tới 50% tuỳ từng mặt hàng so với thời điểm trước dịch Covid-19. Chưa kể, chi phí cao hơn khi cần tuyển dụng lao động gấp để đảm bảo tiến độ hoàn thành đơn hàng khiến lãi biên không cao.
Bóc ngắn, cắn dài
Dự báo xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU nửa cuối năm 2024 sẽ phục hồi rõ nét hơn khi vào mùa nghỉ lễ. Mặc dù lạm phát tại các thị trường như Mỹ và EU đã hạ nhiệt từ mức đỉnh 9 – 10% về khoảng 2,6 – 3,3% nhưng lãi suất vẫn neo cao khiến người dân tại các thị trường nói trên vẫn tiếp tục thắt chặt chi tiêu, nhu cầu tiêu dùng chưa quay trở lại ngay.

Dù vẫn chưa thể thoát khỏi vị thế gia công trong chuỗi cung ứng hàng may mặc, giá trị gia tăng không cao, nhưng dệt may vẫn là ngành xuất khẩu chủ lực có lợi thế của Việt Nam. Doanh nghiệp dệt may Việt không thể tiếp tục cạnh tranh chỉ dựa vào yếu tố chi phí lao động thấp. Bên cạnh chất lượng sản phẩm và thời gian giao hàng, họ cần quan tâm đến các yếu tố như phát triển bền vững, đầu tư mạnh vào chuyển đổi số, tăng cường ứng dụng công nghệ số trong hiện đại hóa quản trị, vận hành sản xuất, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo để đa dạng hóa sản phẩm.
Đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, nhận các đơn hàng đòi hỏi kỹ thuật khó, chọn nhiều đơn hàng nhỏ nhưng giá trị gia tăng cao để đảm bảo đơn hàng đủ duy trì lực lượng lao động ổn định thay vì các mặt hàng phổ thông giá rẻ, khó cạnh tranh, … là những biện pháp cần thiết để đón sẵn khi thị trường ấm hẳn lên trong vài năm tới.
Trách nhiệm môi trường, trách nhiệm xã hội, chính sách phúc lợi đối với người lao động, minh bạch thông tin truy xuất chuỗi cung ứng là các tiêu chuẩn của thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản mà các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu của Việt Nam luôn phải đề cao và tuân thủ nghiêm ngặt, trong khi chờ đợi sự phát triển công nghiệp hỗ trợ – điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp tham gia sâu hơn và chủ động hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: