Bài Vũ Thảo
Ảnh Julie Vola, Benjaminreich

Lối nhuộm chàm thủ công của vùng cao và sử dụng vải vụn làm nên trang phục truyền thống của người H’Mông… là những phương thức tối giản và “xanh hóa” của thời trang bản địa.

Người H’Mông có truyền thống lâu đời về nghề dệt vải lanh

Thuận tự nhiên

Người H’Mông trước hết là những nhà nông xuất sắc với kho tàng tri thức dân gian đặc biệt phong phú. Người H’Mông tại Việt Nam thường cư ngụ ở những khu vực núi cao, hẻo lánh, có địa hình hiểm trở và khí hậu khắc nghiệt. Canh tác nông, lâm nghiệp của họ phụ thuộc rất nhiều vào các chu kỳ mưa, nắng. Để kiểm soát hay điều tiết được tự nhiên, người H’Mông đã có những phát minh cho tưới tiêu, canh tác. Ruộng bậc thang có lẽ là một dẫn chứng sống động cho văn hóa canh nông thuần tự nhiên mà đồng bào H’Mông duy trì bao đời nay. Nuôi trồng cộng sinh cũng là cách tận dụng tối đa tài nguyên thiên nhiên, như vừa chăn nuôi vừa trồng trọt, vừa cấy lúa nước vừa thả cá, hay như trồng luân canh, xen canh các loại cây nông nghiệp.

Người H’Mông có khả năng tự chủ cao về sản xuất và chế tác thủ công. Trang phục truyền thống của người H’Mông được làm hoàn toàn từ chất liệu tự nhiên như bông, gai dầu và tơ tằm. Họ là một trong các dân tộc có truyền thống lâu đời về nghề dệt vải lanh hay còn gọi là vải gai dầu. Loại vải này được tôn vinh trong nhiều cuộc lựa chọn các chất liệu thân thiện với môi trường vì khả năng kháng khuẩn, chống nấm mốc, khả năng phân hủy mà độ bền lại cao. Cây gai dầu kháng sâu bệnh, tiêu thụ nước thấp, có khả năng cải tạo đất đai; đặc biệt có thể hấp thụ khí thải và chuyển đổi sinh khối hữu hiệu.

Để đạt được sắc xanh lam chuẩn phải nhuộm trong vòng cả tháng trời

Dấu chân màu chàm

Nhuộm chàm đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo sắc màu cho trang phục của người H’Mông. Màu chàm chiếm tỉ lệ chính trong toàn bộ trang phục của người H’Mông và là màu nền hoàn hảo cho các kỹ nghệ trang trí khác như thêu thùa, đính cườm, quả bông, chắp vải, cải vải, vẽ sáp ong, hay cán bóng. Cây chàm được người H’Mông gieo trồng ở những khu đất ẩm tại vườn hoặc trên nương. Nhiều nhóm H’Mông tận dụng khu rừng già, bên các khe suối, thung lũng để trồng chàm và để chúng mọc tự nhiên. Giống chàm phổ biến trong cộng đồng người H’Mông là giống chàm lá to có tên địa phương là “chàm Mèo”, và tên khoa học là “Strobilanthes cusia” hay còn được gọi là “chàm Assam – Assam indigo”, “chàm chuông mưa – rain bell indigo”.

Cây chàm có thể ăn được và là dược phẩm phổ biến ở Đông Á và Đông Nam Á. Chàm còn được dùng để hãm trà, làm lành vết thương. Sơn chàm dùng trong hội họa, trang trí và cả xăm hình. Vải nhuộm chàm tự nhiên có khả năng kháng khuẩn, có độ bền lâu. Các trang phục nhuộm chàm của đồng bào H’Mông có thể tồn tại đến mấy chục năm thậm chí cả trăm năm.

Quy trình chiết xuất cao chàm của người H’Mông cũng giống như rất nhiều cộng đồng ít người khác, bao gồm lên men, sục khí với vôi bột và lọc. Nhuộm chàm truyền thống vốn được thực hiện trong các thùng gỗ, chum sành nhưng thời nay đã bị thay thế bởi thùng nhựa khá nhiều. Cách gây men thùng nhuộm chàm của họ hoàn toàn hữu cơ bao gồm cao chàm tự nhiên, hỗn hợp nước chắt của thảo dược có sẵn trong khu vực trong đó có các loại lá thơm, sả và cả rượu ngô, rượu gạo. Nuôi được men trong thùng nhuộm chàm khỏe mạnh là cả một nghệ thuật đòi hỏi kỹ năng tay nghề và lòng kiên trì. Kỹ thuật nhuộm chàm của người H’Mông chủ yếu lặp đi lặp lại thao tác nhúng vải nhưng tốn công, hao sức, để đạt được sắc độ như xanh lam đậm người nghệ nhân phải nhuộm trong vòng cả tháng trời.

Kỹ thuật dệt chàm của người H’Mông đòi hỏi độ chính xác và sự tỉ mỉ cao

Trang phục không rác thải (zero-waste)

Dân tộc H’Mông gồm các nhánh với tên gọi khác nhau như: H’Mông Trắng, H’Mông Đen, H’Mông Xanh, H’Mông Đỏ, H’Mông Hoa, và được phân biệt bởi màu sắc, đặc điểm trên trang phục. Mỗi nhánh đều có trang phục truyền thống mang những đặc trưng riêng. Một bộ trang phục thông thường bao gồm khăn đội đầu, mũ, yếm, áo cánh, áo khoác, chân váy, quần, xà cạp, túi và trang sức.

Cách cắt trang phục của người H’Mông thường không hề lãng phí dù chỉ là một mẩu vải vụn. Trước khi đặt kéo cắt, họ luôn tính toán cẩn thận lượng vải cần dùng cho một bộ trang phục mới. Khổ vải phổ biến của người H’Mông rất hẹp, chỉ từ 35cm đến 40cm. Cấu trúc quần áo vì thế không phức tạp, các chi tiết đều được cắt theo đường thẳng và được khâu, may lại với nhau. Người H’Mông dùng thao tác cách điệu vải để thay đổi diện mạo và cảm giác của vải. Bằng các thao tác gấp, xếp, đính, chắp, để vải phẳng hóa thành hình khối ba chiều, hoặc tăng hiệu ứng thị giác thông qua kết cấu và hình dạng độc đáo, tạo chuyển động sống động trên cơ thể. Một bộ trang phục có thể gồm mười mấy phần, nhưng không chi tiết nào thừa thãi.

Mỗi bộ trang phục của người H’Mông là một tuyên ngôn. Và lối sống của họ – không rác thải, dựa vào thiên nhiên – thấm sâu qua từng nếp áo, từng đường chỉ, từng sắc chàm. Trong thời đại mà thời trang tiêu dùng nhanh khiến nguồn tài nguyên cạn kiệt, thì “Dấu chân xanh lam” của người H’Mông – dấu chân của lối sống thuận tự nhiên – lại trở thành một nét văn hóa đáng học hỏi. Không chỉ là di sản, đó là tương lai bền vững của con người.

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: