Bài: Phan Thanh Hải
Ảnh: Nguyễn Phong

Trải qua hơn 300 năm dâu bể, những khẩu thần công đã lên ten xanh màu thời gian nhưng cũng vì thế chúng lại mang vẻ đẹp cổ kính và huyền bí lạ lùng.

Khẩu thần công do ông Gerad Koster đúc tại Amsterdam và sau này được bán lại cho chúa Trịnh

Đó là 3 khẩu đại bác bằng đồng được đúc vô cùng tinh xảo của Hà Lan hiện còn được giữ gìn, bảo quản gần như hoàn hảo tại bảo tàng Cổ vật cung đình Huế. Trải qua hơn 300 năm dâu bể, những khẩu thần công đã lên ten xanh màu thời gian, nhưng cũng vì thế chúng mang vẻ đẹp cổ kính và huyền bí lạ lùng. Và khi biết về lai lịch của những khẩu đại bác ấy, người ta lại càng bị hấp dẫn và thán phục kỹ năng tuyệt vời của những người thợ xưa, cũng không khỏi cảm thán về số phận lạ kỳ của chúng, những khẩu súng tây cổ trên đất Việt.

Theo các tài liệu lịch sử, đầu thế kỷ 15, một người Việt đã phát minh ra kỹ thuật đúc súng thần công, đó là Hồ Nguyên Trừng, con trai trưởng của Hồ Quý Ly. Vì vậy, dù là tù binh bại trận, bị đưa về Bắc Kinh, ông vẫn được triều Minh trọng dụng, bổ đến chức Thượng thư bộ Công và gọi ông là “Hỏa khí chi thần” (bậc thần dùng hỏa khí). Nhưng cũng vì thế, kỹ thuật đúc thần công của người Việt bị thất truyền. Trong khi đó, từ thế kỷ 16 trở đi, ở các nước phương Tây, công nghệ đúc súng đại bác đã có những bước phát triển rất xa. Hà Lan là một trong những cường quốc sở hữu công nghệ này. Trong các thế kỷ 16, 17, những khẩu đại bác của Hà Lan đã được công ty Liên hiệp Đông Ấn (Vereenigde Oost-Indische Compagnie – VOC) xuất khẩu đi khắp thế giới, trong đó có thị trường Việt Nam.

Điều thú vị là cả 3 khẩu đại bác Hà Lan tại bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế đều là quà tặng hoặc sản phẩm đặt hàng của chúa Trịnh chứ không phải là chiến lợi phẩm hay kết quả từ giao thương của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, vậy mà chúng lại có mặt ở kinh đô triều Nguyễn. Hiện nay, chúng được mang các số đăng ký lần lượt là: BTH-TB KL2 52, BTH-TB KL2 53 và BTH-TB KL2 54 và đều được trưng bày ở sân trước của bảo tàng.

Trang trí mềm mại ở quai súng thần công

Nhà nghiên cứu người Pháp gốc Việt Philippe Trương đã có một khảo cứu công phu về nguồn gốc của ba khẩu súng này. Theo ông, khẩu thần công thứ nhất (BTH-TB KL2 52) do Gerard Koster (1627 – 1679), một nghệ nhân nổi tiếng đúc tại Amsterdam năm 1661. Súng dài 207cm, đường kính miệng 10cm, nặng 1.364 livre (khoảng 682 kg), vành chuôi súng đúc nổi dòng chữ “GERARD KOSTER ME FECIT AMSTELREDAMI A° 1661”. Mặt trên và mặt bên của chốt súng, có dòng chữ Hán, được khắc thêm về sau: 四尺八二寸二(tứ xích bát nhị thốn nhị: dài 4 thước 82 tấc 2 phân). Thân súng hình trụ, gồm 3 phần: nòng súng, bầu súng và chuôi súng. Chuôi súng lớn, thuôn nhỏ dần về phía nòng, miệng súng loe rộng. Phía trên thân súng có 2 quai cách điệu thành hình 2 con cá heo, mỏ và đuôi cá gắn vào thân súng. Phần cuối chuôi súng là núm súng thể hiện hoa văn hình nón thông với lá cây ô rô. Đây là kiểu hoa văn đặc trưng trên những khẩu súng thần công sản xuất tại Hà Lan vào thế kỷ 17. Thân súng được trang trí một hoa dây lá ô rô, một thuyền buồm, trên các ký tự A và VOC. Hình chiếc thuyền buồm ba cột có treo cờ Hà Lan trên khẩu thần công này chính là loại thương thuyền mà công ty Đông Ấn Hà Lan sử dụng trong hoạt động mậu dịch giữa Hà Lan với các nước Đông Nam Á. Đây cũng là hình ảnh biểu tượng của công ty này, thường được thể hiện trên các dấu triện của các Toàn quyền. Lối trang trí trên chứng tỏ khẩu thần công này được đúc riêng cho một chiếc thuyền rất quan trọng của công ty Đông Ấn Hà Lan.

Khẩu súng thứ hai (BTH-TB KL2 53) dài 197cm, đường kính miệng 10cm, nặng 1.355 livre (khoảng 677,5 kg) do Kylianus Wegewaert, cũng là một nghệ nhân nổi tiếng đúc tại Kampen vào năm 1640. Vành chuôi súng ghi “KYLIANUS. WEGEWART. ME. FECIT. CAMP. 15. A°”. Mặt trên và mặt bên của chốt súng, có dòng chữ Hán, được khắc thêm về sau: 四 尺 六 二 寸 三 (tứ xích lục nhị thốn tam: dài 4 thước 62 tấc và 3 phân). Trang trí trên thân súng rất phong phú và tỉ mỉ, với dây lá ô rô cách điệu và những dải hồi văn hoa lá liên hoàn và hình mặt nạ người kì dị, tiêu biểu cho các kiểu thức trang trí của châu Âu vào đầu thế kỷ 17. Nhưng đồng thời lại có sự hiện diện đáng ngạc nhiên của hoa văn, vòng nguyệt quế bao quanh đồ án “Lưỡng long tranh châu”, một kiểu trang trí chưa hề xuất hiện ở Hà Lan hồi bấy giờ. Theo ông Philippe Trương – nhà nghiên cứu, sưu tập cổ vật – khẩu đại bác này hẳn là món quà mà công ty Đông Ấn Hà Lan tặng cho chúa Trịnh để lấy lòng chính quyền Đàng Ngoài.

Khẩu súng thứ ba (BTH-TB KL2 54) không đề tên người đúc và năm đúc. Trên chốt súng này có 7 chữ Hán được khắc thêm về sau: 五 尺 四 二 寸 三 一 (ngũ xích tứ nhị thốn tam nhất: dài 5 thước 42 tấc 31 phân). Hoa văn trang trí trên thân súng là những kiểu thức tiêu biểu của Việt Nam lúc bấy giờ như hoa cúc, hoa thị  hay hồi văn hoa mai liên hoàn. Phần thân sau của súng, có đúc nổi một bông sen trong một hình oval cách điệu như một búp hoa, một kiểu mô phỏng các kiểu thức trang trí theo motif châu Âu. Kỹ thuật đúc và chất liệu đồng của khẩu súng này không tốt bằng hai khẩu thần công đúc năm 1640 và năm 1661. Có lẽ, đây là 1 trong 6 khẩu súng được chúa Trịnh Tạc (1606 – 1686) đặt hàng công ty Đông Ấn – Hà Lan sản xuất thông qua thương điếm Hà Lan tại Kẻ Chợ. Súng được đúc vào năm 1677 – 1678. Tháng 5/1678, thuyền Experiment & Croonogel cập bến Đàng Ngoài để bàn giao số súng trên cho chúa Trịnh. Là súng đặt hàng nên trang trí trên thân súng mang đặc trưng của văn hoá của thời Lê Trung Hưng.

Khẩu thần công được chúa Trịnh Tạc (1606 - 1682) đặt hàng sản xuất

3 khẩu đại bác bằng đồng của Hà Lan mỗi khẩu mỗi vẻ nhưng đều đẹp tuyệt vời và có giá trị đặc biệt về lịch sử. Sau khi thống nhất đất nước, vua Gia Long hẳn đã đưa chúng về kinh đô Huế, dùng làm mẫu nghiên cứu để từ đó đúc ra hàng nghìn khẩu thần công cho triều đại. Sau  năm 1885, người Pháp đã từng đưa những khẩu súng này vào trưng bày tại tòa Khâm sứ Trung kỳ.Khi Bảo tàng Khải Định được thành lập cách đây tròn 100 năm, chúng mới được gửi tặng cho Bảo tàng và được giữ gìn đến ngày hôm nay.

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: